1. Sách Lý Thường Kiệt: Lịch sử ngoại giao và tông giáo triều Lý của học
giả Hoàng Xuân Hãn viết: “Chú thích 4.
TT và VSL đều chép lầm chữ Kỷ ra chữ Ất vì tự dạng gần nhau. Sự lầm như nhau
chứng rằng hai sách đều bởi một gốc mà ra: Đại-Việt sử-ký của Lê Văn-Hưu. VSL
chép ngày bằng lối can chi, chứ không nói rõ số mục ngày trong tháng. Vì không
biết phép lịch dùng đời Lý, nên tôi không đổi ra ngày ta, mà chỉ dùng phép đổi
ra ngày dương lịch mà thôi (Xem phép đổi trong báo Khoa-học số 19 và 20). Nhờ
sự đổi ấy, tôi đã thấy rằng bản in VSL lầm ngày một vài chỗ, như ta sẽ thấy”.
Sách Việt sử lược chép: “Năm Quý Tỵ
[1053] là năm Sùng Hưng Đại Bảo thứ 5. Nhà Tống đánh Trí Cao. Vua Tống sai
Lương Châu sang xin vua [Lý Thái Tông] giúp binh lực”.
Sách Toàn thư chép: “Quý Tỵ năm thứ 5
[1053] Mùa đông tháng 10, Trí Cao sai Lương Châu đến xin quân”.
* Giữa sách Việt sử lược và sách Đại
Việt sử ký toàn thư chép sai khác nhiều mục.
Sách Việt sử lược chép: “Năm Giáp Ngọ
[1054] là năm Sùng Hưng Đại Bảo thứ 6. Dùng Bùi Gia Hựu làm Văn minh điện đại
học sĩ (…) lập 8 hoàng hậu. Dùng Nguyễn Đạo Thành làm Thái sư, Quách Kinh Nhật
làm Thái uý”
Sách Toàn thư chép: “Giáp Ngọ năm thứ
6 [1054] Cho Bùi Hựu làm Văn minh điện đại học sĩ (…) Canh Tý năm thứ 2 [1060]
Mùa thu tháng 7, quân Tống xâm lấn không được, bèn sai Thị lang bộ Lại là Dư
Tĩnh đến Ung Châu để hội nghị. Vua [Lý Thánh Tông] sai Phí Gia Hựu đi”.
* Theo như sách Việt sử lược thì năm
1054 vua Lý Thánh Tông lấy Lý Đạo Thành làm Thái sư.
Sách Việt sử lược chép: “Năm Kỷ Dậu
[1069] là năm Thần Võ thứ nhất. Mùa xuân tháng 2, ngày Mậu Tuất vua xuống chiếu
thân chinh đánh nước Chiêm Thành (…) Tháng 3 (…) Đại quân tiến lên trước đóng ở
bờ sông Tu Mao thấy tướng Chiêm Thành là Bố Bì Dà La đang bày trận ở bờ sông.
Quan quân xông ra đánh, chém Bố Bì Dà La, quân Chiêm chết vô số. Chúa Chiêm
Thành là Đệ Củ nghe quân bị thua bèn dắt vợ con ban đêm lẩn trốn. Đêm ấy, quan
kéo vào thành Phật Thệ, đến bến Đồng La, dân ở thành Phật Thệ xin hàng. Mùa hạ
tháng 4, nguyên soái Nguyễn Thường Kiệt bắt được Đệ Củ ở biên giới Chân Lạp.
Mùa hạ tháng 5, vua ngự tiệc cùng quần thần ở ngội điện của vua Chiêm Thành,
vua lại thân hành múa thuẫn và đánh cầu ở nơi thềm điện ấy”.
Sách Toàn thư chép: “Quý Mão năm thứ 5 [1063] Bấy giờ vua
xuân thu đã nhiều, tuổi 40 mươi mà chưa có con trai nối dõi, sai Chi hậu nội
nhân Nguyễn Bông làm lễ cầu tự ở chùa Thánh Chúa, sau đó Ỷ Lan phu nhân có
mang, sinh hoàng tử Càn Đức tức Nhân Tông. Tục truyền rằng vua cúng khấn cầu tự
chưa thấy hiệu nghiệm, nhân đi chơi khắp các chùa quán, xa giá đi đến đâu, con
trai con gái đổ xô đến xem không ngớt, duy có một người con gái hái dâu cứ nép
trong bụi cỏ lan. Vua trông thấy, gọi đưa vào cung, được vua yêu, phong làm Ỷ
Lan phu nhân. Vua muốn có con trai, sai Bông đem hương cầu đảo ở chùa Thánh
Chúa. Nhà sư dậy cho Bông thuật đầu thai thác hoá. Bông nghe theo. Việc phát
giác, đem chém Bông ở trước cửa chùa. Người sau gọi chỗ ấy là Đồng Bông.
Chùa ở xã Dịch Vọng, huyện Từ Liêm, Đồng Bông ở phía Tây trước cửa chùa, nay
hãy còn (...) Kỷ Dậu năm thứ 2 [1069] Mùa xuân, tháng 2, vua thân đi đánh Chiêm
Thành, bắt được vua nước ấy là Chế Củ và dân chúng 5 vạn người. Trận này
vua đánh chiêm thành mãi không được, đem quân về đến châu Cư Liên, nghe tin
Nguyên phi giúp việc nội trị, lòng dân cảm hoá hoà hợp. Trong cõi vững vàng,
tôn sùng Phật giáo, dân gọi là bà Quan Âm, vua nói: "nguyên phi là đàn bà
còn làm được như thế, ta là nam nhi lại chẳng được việc gì hay sao?". Bèn
quay lại đánh nữa, thắng được. Mùa hạ tháng 6 đem quân về. Mùa thu tháng 7, vua
từ Chiêm thành về đến nơi, dâng tù ở Thái Miếu, đổi niên hiệu là Thần Vũ năm
thứ 1”.
* Sách Toàn thư chép nhiều hơn sách Việt sử lược đoạn vua gặp
nguyên phi Ỷ Lan và dẫn nguồn rất rõ là tục truyền. Nhưng nguồn thông tin này
có thể tin được hay không ? Lại thêm sự kiện vua Lý Thánh Tông đánh Chiêm Thành
năm 1069. Hai sách cũng chép sai khác. Sách Toàn thư chép thêm sự kiện vua đánh
không thắng phải đem quân về, đến châu Cư Liên nghe tin nguyên phi Ỷ Lan trị
nước tốt đẹp, vua thấy xấu hổ mà dẫn quân đánh lại Chiêm Thành và thắng được.
Sách Cương mục chép: “Lời phê. Bấy giờ há lại không có đại thần
để cho ở lại giữ nước hay sao ? Mà phải đến đàn bà can dự chính sự, để chuốc
lấy tiếng khen. Sử chép không đúng sự thực, đại loại như thế đấy”.
* Có lẽ sử gia Ngô Sĩ Liên đã thu lượm những tục truyền tốt
đẹp về Nguyên phi Ỷ Lan để chép vào sử. Chứ thực hai chuyện về Ỷ Lan không nên
tin.
Sách Việt sử lược chép: “Năm Ất Tý [1065] Mùa đông tháng chạp,
rồng vàng hiện ở điện Diệu Linh, lại hiện ra gác Du Thiền, nơi mà bà Nguyên phi
là Ỷ Lan ở (…) Năm Mậu Thân [1069] Mùa xuân tháng giêng châu Chân Đăng dâng voi
trắng hai con. Lạng châu dâng voi trắng một con. Rồng vàng hiện ở điện Diệu
Linh”.
Sách Toàn thư chép: “Tân Sửu [năm 1061] Mùa xuân tháng 2 chọn
con gái dân gian 12 người vào hậu cung (…) Bính Ngọ [năm 1066] Mùa xuân tháng
giêng ngày 25 giờ Hợi, hoàng tử Càn Đức sinh (…) Mậu Thân [năm 1068] Mùa xuân
tháng 2 hoàng tử là Minh Nhân vương (không rõ tên) sinh, đó là người em cùng mẹ
của Nhân Tông. Châu Chân Đăng dâng 2 con voi trắng, nhân đó đổi niên hiệu là
Thiên Huống Bảo Tượng năm thứ 1”.
* Tuy rằng sách Việt sử lược không chép trực tiếp, song có chép
những điểm lành, so sánh với sách Toàn thư, chúng ta biết rằng những điềm lành
chép trong sách Việt sử lược như rồng vàng hiện là ý chỉ việc Nguyên phi Ỷ Lan
sinh Thái tử. Trong sách Việt sử lược chép rồng vàng đều hiện ở điện Diệu Linh,
vậy thì rõ rằng thông tin Minh Nhân vương là em trai cùng mẹ với Nhân Tông chép
trong sách Toàn thư là chính xác. Xem sách Toàn thư, chúng ta sẽ rất dễ bị nhầm.
Sách Toàn thư chép mục năm 1063 rằng vua xuân thu đã 40 mà chưa có con trai, nên
sai Chi hậu nội nhân Nguyễn Bông đi khắp nơi cầu tự, sau đó Ỷ Lan phu nhân có bầu.
Rồi ngay sau đó sách Toàn thư dẫn Tục truyền, chép về cuộc gặp gỡ giữa Lý Thành
Tông và Nguyên phi Ỷ Lan nên khiến chúng ta nghĩ rằng bà Ỷ Lan vào cung năm 1063.
Nhưng Tục truyền không nên tin! Mà sách Toàn thư chép rất rõ mục năm 1061 vua
chọn con gái trong dân gian 12 người đưa vào hậu cung. E rằng bà Ỷ Lan được tiến
cung trong đợt này. Sử chép là tuyển con gái trong dân gian có chính xác không
? Câu này không nên hiểu dân gian là tầng lớp lao động được, mà nên hiểu là những
vùng đất xa kinh thành. Có thể là con gái của các thủ lĩnh cứ những vùng đất xa
xôi. Chúng ta thấy sau khi bà Ỷ Lan sinh hoàng tử Nhân Vương, châu Chân Đăng dâng
2 con voi trắng, nhân đó mà đổi niên hiệu sang Thiên Huống Bảo Tượng. Tại sao lại
là 2 con voi trắng ? Vì nó ứng với 2 vị hoàng tử. Vì sao lại là châu Chân Đăng
? Vì châu Chân Đăng có họ Lê rất có thế lực mà rất trùng hợp bà Ỷ Lan cũng người
họ Lê. Tôi ngờ rằng không phải là trùng hợp, bà Thái phi Ỷ Lan thuộc dòng tộc họ
Lê châu Chân Đăng sinh con trai được phong làm Thái tử là sự đại cát đại lộc đối
với bà Ỷ Lan nói riêng và đối với họ Lê châu Chân Đăng nói chung. Có lẽ vì thế
mà họ Lê mới tự dưng đem dâng 2 con voi trắng, ấy là để chúc mừng lẫn nhau, ngày
nay những chuyện như vậy vẫn còn. Vua Lý Thánh Tông đổi niên hiệu sang Thiên Huống
Bảo Tượng nghĩa là Trời cho con voi trắng. Rõ là vua biết châu Chăn Đăng dâng
voi trắng, vậy mà cố nói rằng Trời cho. Ý của vua không phải là voi trắng, mà là
trời cho con trai, trời cho hoàng tử, mà đúng là trời cho thật. Lý Nhân Tông là
vị vua anh minh, đức hạnh.
Sách Việt sử lược chép: “Năm Tân Hợi
[1071] là năm Thần Võ thứ 3. Mùa đông tháng chạp vua không được khoẻ, vua hạ
chiếu rằng, quân hữu ty mà đi nhầm vào nhà của chức quan Đô tả hay Đô hữu sẽ bị
phạt 18 trượng. Năm Nhâm Tý [1072] là năm Thần Võ thứ 4. Mùa xuân tháng giêng,
ngày Canh Dần vua bệnh nặng rồi qua đời ở điện Hội Tiên”.
Sách Toàn thư chép: “Canh Tuất, Thần
Vũ năm thứ 2 [1070] Mùa thu tháng 8, làm Văn Miếu, đắp tượng Khổng Tử, Chu Công
và Tứ phối, vẽ tượng thất thập nhị hiền, bốn mùa cúng tế. Hoàng thái tử đến học
ở đây (…) Tân Hợi năm thứ 3 [1071] Mùa đông tháng 12 vua không khoẻ. Xuống
chiếu cho hữu ty ai vào lầm hành lang tả hữu quan chức đô thì đánh 80 trượng
(…) Nhâm Tý năm thứ 4 [1072] Mùa xuân tháng giêng, ngày Canh Dần vua băng ở
điện Hội Tiên”.
Sách Lý
Thường Kiệt: Lịch sử ngoại giao và tông giáo triều Lý viết: “Chú thích 6. Lý
Đạo-Thành làm Thái-sư, tức là tể tướng, từ năm 1054 (VSL). Theo TT, bà
Nguyên-phi coi chính quyền. Nguyên-phi tức là Ỷ-Lan. Ỷ-Lan chỉ là phi. Bấy giờ
còn có hoàng hậu Thượng-Dương. Vả sau khi Thánh-Tông mất, quyền về tay hoàng
hậu. Cho nên có thể nghi rằng trong khi vua vắng mặt, quyền cũng giao cho
Dương-hậu. Vua Tự-Đức đã phê và trong sách CM, đại ý cũng như thế. Nhưng bấy
giờ Ỷ-Lan mới sinh hoàng tử, được vua rất yêu dấu. Nên có thể được vua giao tạm
quyền. Còn sau này, hình như Thánh-Tông chết một cách đột ngột, không kịp dặn
dò, cho nên theo lẽ thường, Lý Đạo-Thành đã cử Dương-hậu chấp chính. Xem vậy,
sự Thánh-Tông giao quyền cho Ỷ-Lan trong lúc đi đánh Chiêm-thành, không phải là
vô lý (…) Khi Thánh-tông vắng mặt ở kinh (1069) Thái phi đã được thay vua cầm
quyền. Thái tử còn trẻ; lẽ ra trước khi mất, vua cha phải phó thác cho một đại
thần. Nhưng sử không chép vua Thánh-tông ủy quyền phụ chánh cho ai. Ta xem đó,
nghi rằng vua mất một cách nhanh chóng, không kịp di chúc điều đó. Cho nên
trong cung cấm có chuyện cạnh tranh. TT còn chép rằng: tháng chạp năm trước,
vua mệt. Chiếu cho quan hữu ti rằng có ai vào lầm nhà dành cho quan chức đô tả
hữu, thì sẽ phạt 80 trượng. Ý chừng là để đề phòng sự cướp quyền”.
* Sách Việt sử lược chép thiếu sự
kiện vua Lý Thánh Tông khởi dựng Văn Miếu và cho Thái tử đến học. Nhưng sách
Toàn thư chép vua Lý Thánh Tông dựng Văn Miếu vào tháng 8/1072 có chính xác
không ?
Sách Thiền uyển tập anh chép: “Đại sư
Mãn Giác [1052-1096] Chùa Giác Nguyên, Cửu Liên. Người Lũng Chiền, làng An
Cách, họ Nguyễn tên Trường. Cha là Hoài Tổ làm quan đến chức Trung thư viên
ngoại lang. Vua Lý Nhân Tông, lúc còn làm Thái tử [1066-1072] xuống chiếu mời
con em các danh gia vào hầu hai bên. Sư nhờ nghe nhiều, nhớ kỹ học thông cả
Nho, Thích nên được dự tuyển. Sau những lúc việc quan, thường chú tâm vào thiền
học. Đến khi vua lên ngôi [1072] vì rất mến chuộc sư, ban cho sư tên Hoài Tín”.
* Như vậy rằng: sách Toàn thư chép
năm 1070 vua Thánh Tông dựng Văn Miếu, Thái tử Càn Đức đến học có lẽ không sai.
Sư Mãn Giác nghe nhiều nhớ kỹ, thông cả Nho, Thích vậy rõ là Nho học cũng đã có
thời gian truyền bá ở Đại Việt. Năm 1070 khi Thái tử đến tuổi đi học, có lẽ vua
Thánh Tông đã tính chuyện xây dựng nền giáo dục cho Thái tử và rộng hơn là các
con em danh gia. Tuy rằng sách Toàn thư chép vua cho đặp tượng Khổng Tử, nhưng
rất có thể thời gian đầu, Phật giáo vẫn được dạy trong Văn Miếu. Có 1 chi tiết
khá thú vị, ấy là sư Mãn Giác vì nghe nhiều nhớ kỹ nên được dự tuyển. Dự tuyển
ở đây có lẽ là dự thính, được hầu Thái tử học chứ không phải dự tuyển thi.
* Học giả Hoàng Xuân Hãn cho rằng vua
chết đột ngột không kịp di chúc vì không thấy sách sử chép lại. Xem ra không
phải như vậy! Tháng 12/1071 vua đã bắt đầu cảm thấy không được khoẻ và đến
tháng 1/1072 vua mới băng. Rõ ràng vua không chết đột tử. Vẫn còn thời gian vài
ngày để di chúc. Có thể các sử gia không biết việc di chúc mà chép lại ? Học
giả Hoàng Xuân Hãn cho rằng lệnh cấm đi lại trong hành lang tả hữu là bắt nguồn
từ việc cấm trong cung tranh giành sau khi chết mà không kịp di chúc. Xem ra sự
việc không giống như Giáo sư nhận định. Nếu lệnh cấm đi lại trong hành lang tả
hữu không phải do vua Lý Thánh Tông ban hành thì người nằm quyền lúc bấy giờ
chính là người ra lệnh. Nhưng người đó có thể là ai ? Việc ban lệnh ấy đúng là
để đề phòng sự tiếm quyền nhưng cả sách Việt sử lược và Toàn thư đều chép thống
nhất rằng thời điểm ban lệnh ấy là sau sự kiện vua cảm thấy không được khoẻ vào
tháng 12/1071 và trước sự kiện vua băng ở điện Hội Tiên vào tháng 1/1072. Quan
trọng hơn cả là sách sử chép rất rõ, lệnh do vua ban. Nếu bám sát các thông tin
sử chúng ta có thể xác định rằng: vào tháng 12/1071 vua Lý Thánh Tông cảm thấy
không được khoẻ, vua sợ rằng có biến loạn nên ban lệnh cấm không được đi lại
trong hành lang tả hữu, cho tới tháng 1/1072 trước khi Thánh Tông băng ở điện
Hội Tiên thì vẫn đủ thời gian để di chúc việc phụ chính.
Sách Việt sử lược chép: “Năm Nhâm Tý
[1072] là năm Thần Võ thứ 4. Mùa Xuân tháng giêng ngài [Lý Càn Đức] lên ngôi.
Trước linh cữu vua Thánh Tông, vua tôn mẹ là Nguyên phi Ỷ Lan làm Thái phi (…)
Để cho Thái hậu Thượng Dương cùng dự việc triều chính. Mùa hạ tháng 4, ngày
mùng 8 làm lễ rước nước tắm tượng Phật. Vua ngự ở điện Thiên An để thị triều.
Ngày ấy vua dùng quan trong hàng Đại liêu ban là Nguyễn Thường Kiệt làm Kiểm
hiệu thái uý, Nguyễn Nhật Thành làm Binh bộ thị lang. Còn các cấp khác trở
xuống, mỗi người một chức vị sai biệt nhau. Vua tha cho những người bị cầm tù ở
Đô hộ phủ. Quan Lạng châu mục là Dương Cảnh Thông dâng con hươu trắng. Quần thần
dâng biểu lên chúc mừng. Vua phong Dương Cảnh Thông làm Thái bảo”.
Sách Toàn thư chép: “Nhâm Tý năm thứ
4 [1072] Mùa xuân tháng giêng, Hoàng thái tử Càn Đức lên ngôi trước linh cữu,
đổi niên hiệu Thái Ninh năm thứ 1. Bấy giờ vua mới 7 tuổi, tôn mẹ đẻ là Ỷ Lan
nguyên phi làm Hoàng thái phi, tôn mẹ đích là Thượng Dương thái hậu họ Dương
làm Hoàng thái hậu, buông rèm cùng nghe chính sự, Thái sư Lý Đạo Thành giúp đỡ
công việc. Mùa hạ tháng 4 ngày mồng 8, vua xem lễ tắm Phật”.
Sách Lý Thường Kiệt: Lịch sử ngoại
giao và tông giáo triều Lý viết: “Lý Đạo-Thành là một bậc lão thần. Vua
Thánh-tông lúc mới lên ngôi, đã chọn ông làm thái sư (1054, VSL). Ông ở ngôi tể
tướng trong 18 năm. Nay vua còn trẻ, chức phụ chánh về ông là phải. Ông lại là
một nhà nho học; ông theo lẽ thường, tôn Thượng-Dương thái hậu lên chấp chính.
Đó là một cớ xung đột giữa ông và Ỷ-lan thái phi. Là một văn quan, mộ nho, mộ
phật, chắc ông chuộng hoà bình, trái với Lý Thường-Kiệt là một vũ tướng đương
tuổi còn hăng hái (54 tuổi). Thường-Kiệt vẫn giữ chức thái uý, cầm binh quyền,
nhưng đứng sau thái sư Đạo-Thành. Đã có xung đột giữa hai người, thì chẳng bao
lâu ắt có cuộc biến. VSL chép rằng: “ngày mồng 8 tháng tư năm ấy (TT chép năm
ấy là năm Thái-ninh năm đầu, còn VSL chép năm ấy vẫn để niên hiệu Thần-vũ) sau
khi làm lễ tắm tượng Phật, nhân ngày Phật đản, vua Nhân-tông chọn quan đại liêu
Nguyễn Thường-Kiệt làm kiểm hiệu thái úy, và Nguyễn Nhật-Thành làm binh bộ thị
lang”. Họ Nguyễn đây là họ Lý mà đời Trần kiêng húy (tổ nhà vua là Trần Lý) mà
đổi ra. Nhật-Thành chắc là Đạo-Thành. Chữ Đạo hình như vì húy nên đời Trần cũng
hay đổi [XV/1. Năm 1077 Lý Thường-Kiệt đã giúp sư Ðạo-dung chữa chùa
Hương-nghiêm ở Thanh-hóa. Sách TUTA có chép chuyện vị sư này. Nhưng những bản
nay còn đều chép hiệu sư là Pháp-dung. Ấy vì đời Trần, kiêng húy Trần Hưng-Ðạo]
Theo đó, bốn tháng sau khi Nhân-tông lên ngôi, phe Thường-Kiệt đắc thắng.
Thường-Kiệt được cất lên làm tể chấp, còn Lý Đạo-Thành bị giáng xuống chức thị
lang”.
* Như giáo sư Hoàng Xuân Hãn có chỉ
ra sự sai khác về niên hiệu trong 2 sách Toàn thư và Việt sử lược, theo đó năm
1072 trong sách Toàn thư là niên hiệu Thái Ninh thứ nhất, trong khi năm 1073
trong sách Việt sử lược mới là năm Thái Ninh thứ nhất. Giáo sư Hoàng Xuân Hãn
cho rằng Nguyễn Nhật Thành được chép trong sách Việt sử lược là Lý Đạo Thành,
do kiêng huý nhà Trần nên đổi Lý thành Nguyễn và Đạo thành Nhật. Thế nhưng cũng
chính sách Việt sử lược chép: “Năm Mậu Thìn [1028] là năm Thuận Thiên thứ 19
(…) Tháng 5 (…) Nhà vua dùng Nguyễn Đạo Kỷ làm khu mật (…) Năm Giáp Ngọ [1054]
là năm Sùng Hưng Đại Bảo thứ 6 (…) Dùng Nguyễn Đạo Thành làm thái sư”. Nếu là
kiêng chữ Đạo nên chép sang chữ Nhật thì sao lại chỉ kiêng mục 1072 mà không
kiêng mục 1028 và 1054. Thêm nữa, giáo sư Hoàng Xuân Hãn nhận định Lý Thường
Kiệt được cất lên làm tể chấp còn Lý Đạo Thành bị giáng xuống chức thị lang.
Nhưng nếu xét theo trình tự của sách Việt sử lược thì tháng 1/1072 vua Lý Nhân
Tông lên ngôi, Thái hậu Thượng Dương dự chính, tháng 4/1074 dùng Nguyễn Thường
Kiệt làm Kiểm hiệu thái uý, Nguyễn Nhật Thành làm Binh bộ thị lang. Rõ ràng là
tại thời điểm tháng 4/1072 phe Thái hậu Thượng Dương và Lý Đạo Thành đang thắng
thế, vậy thì thật khó hiểu cho sự kiện Nguyễn Nhật Thành làm Binh bộ thị lang.
Hoặc là Nguyễn Nhật Thành không phải là Lý Đạo Thành hoặc là sách Việt sử lược
chép sai chức tước Binh bộ thị lang của Lý Đạo Thành hoặc là sách Việt sử lược
chép sai thời điểm ban chức tước cho Lý Đạo Thành. Sách Việt sử lược chép những
cái tên rất dễ nhầm lẫn như: mục năm 1028 Nguyễn Đạo Kỷ, mục năm 1054 Nguyễn
Đạo Thành, mục năm 1072 Nguyễn Nhật Thành.
* Sách Việt sử lược chép thông tin
rất quan trọng. Mùa hạ năm 1072 quan Lạng châu mục Dương Cảnh Thông dâng con
hươu trắng. Vua phong Dương Cảnh Thông làm Thái bảo. Biên cảnh phía bắc có họ
Thân, họ Hà nhiều đời thông gia với họ Lý nhưng không thấy dâng lễ vật ? Sau
khi dâng lễ vật quan Lạng châu mục Dương Cảnh Thông được vua phong Thái bảo. Sử
chép là vua nhưng ngài lúc này mới có 7 tuổi chẳng biết gì nên việc phong này
hẳn là do người nắm chính triều. Theo trình tự chép trong Việt sử lược thì sự
kiện Dương Cảnh Thông dâng hươu trắng sau sự kiện Lý Thường Kiệt được bổ làm
Kiểm hiệu thái uý và sau sự kiện Thái hậu Thượng Dương phụ chính. Sách Toàn thư
cho biết bà Thái hậu cung Thượng Dương người họ Dương. Tôi ngờ rằng vị Lạng
châu mục Dương Cảnh Thông có quan hệ thân tộc với vị Thái hậu Thượng Dương. Chỉ
có 2 thông tin là tôi chưa lý giải được: Thứ
nhất là từ nhiều đời họ Thân ở động Giáp được phong chức châu mục Lạng Châu
nhưng sao nay chức ấy lại do người họ Dương nắm giữ ? Thứ hai là quan Lạng châu mục Dương Cảnh Thông dâng con hươu trắng
thì có gì đâu mà các quần thần phải dâng biểu lên chúc mừng ?
Văn khắc trên chuông chùa Sùng Khánh châu Tư Lang như sau: “Phủ
trung bảo tiết, Tá lý công thần, Thứ sử châu Phú Lương kiêm Tiết độ
quan sát sứ các châu Quảng Nguyên, Tư Lang, Kim tử Vinh lộc Đại phu – Kiểm hiệu
Thái phó kiêm Ngự sử Đại phu, Đồng Trung thư Môn hạ Bình chương (sự) – […]
Hoằng Nông quận Khai quốc công, thực ấp một vạn hộ, thực phong năm nghìn hộ Dương
Cảnh Thông đặc biệt bỏ ra đồng tinh hơn bảy ngàn cân, tạo chuông lớn một
quả, lưu lại cúng dường (...) Người chủ trương việc đúc chuông là Phò (mã) lang,
người sáng lập nước Quắc vậy. Nhà ông thuộc (châu) Thái Bình, vốn dòng quí
hiển, tiên tổ có công, rủ lành tích thiện. Hiển (tổ) là Thượng thư Bộ Binh, đạo
vượt quần anh, oai kinh tứ chiếng. Cao tổ chức Thái phó, son sắt cẩn mực, tiết
tháo sạch trong, sinh ra Định (tổ), húy là Nhật Đăng: thẳng thắn chính trực,
mưu tính sâu xa, làm đến Thái bảo. Thái vương phụ húy Khuông, tu tập nhân lành,
chức rốt Thái phó. Vương phụ húy Huệ Doanh, văn từ hoa lệ, điển tịch nắm quyền,
trước thuật uyên thâm, quét tan a đảng, sinh được ba con. Ông là con út, dáng
vẻ kỳ vĩ, dung nghi rạng ngời. Hạnh ngộ tiên vương, tuy có hoàng nữ được yêu
chuộng, lễ nên ban gả cho phiên thần, liền triệu ông vào chầu, ngầm hợp lòng
trên, gia ơn quyến cố, đáng làm rể quý, chọn lựa ngày lành, làm lễ gả công chúa
Thọ Dương, tỏ lòng biệt đãi. (Thế là) xóm làng ca ngợi, họ tộc vẻ vang, lại đội
ơn đức kim thượng lễ đãi khác thường, gia phong phẩm trật. Giữ vùng quan ải,
mưu lạ chước mầu, muôn việc vẹn toàn, oai rền biên tái. Ngọc quan giữ vững, binh
hỏa lặng yên, dân chúng thảnh thơi, công thành trị định, chuộng tu quả phúc,
trong thấu lẽ mầu, ngoài tô điện phật, nhớ đền bốn ơn, ngầm phát nguyện lớn (...)
Nay kính chúc Đương kim Hoàng đế, cơ đồ bền vững, ngôi báu yên bình, ơn huệ rãi
đều, oai quyền nắm mãi. Thứ đến chúc Thánh Thiện Hoàng thái hậu, đạo vượt Ốc
Đăng, thọ hơn Phụ Bảo. Những mong công chúa Thọ Dương: trên đài hoa báu, mãi
chứng quả bồ đề, trong điện pháp lành, cùng lên hàng vương giác. Kiêm chúc song
thân khảo tỉ cùng các quyến thuộc: gội duyên lành này, siêu sinh tịnh độ.
Kính cầu cho ngài Thái phó họ Dương chủ xướng việc đúc chuông cho tới lệnh lang
nối dõi trở xuống: oan khiên rũ sạch, phúc lộc dồi dào. Chuông đã đúc xong, nên
làm bài văn nêu cho mai hậu. Tôi tự xét mình kém cỏi, không rõ thể tài, dám xin
làm lời minh (…) Ngày 15 tháng Giêng năm thứ 4 niên hiệu Hội Tường Đại Khánh
[1113] chép. Hồng Tán đại sư Thích Diên Thọ chùa Quảng Giáo Viên Minh khắc. Thừa
vụ lang hiệu thư sảnh – thần Dương Văn Đĩnh viết. Viên ngoại lang bộ Hộ sung học
sĩ viện Tập Hiền – Tứ tử Kim Ngư đại – thần Tào Lương Phụ soạn” [dẫn theo Phạm
Lê Huy và Trần Quang Đức]
Sách Toàn thư chép: “Đinh Dậu [năm
1117] Phò mã lang là Dương Cảnh Thông dâng hươu trắng (…) Giáp Thìn [năm 1124]
Thủ lĩnh châu Quảng Nguyên là Dương Tự Hưng dâng hươu trắng (…) Đinh Mùi [năm
1127] Gả công chúa Diên Bình cho thủ lĩnh phủ Phú Lương là Dương Tự Minh”.
* Căn cứ vào văn khắc trên chuông chùa Sùng Khánh chúng ta
biết rằng sách Việt sử lược chép nhầm chức tước của Dương Cảnh Thông. Cảnh Thông
được ban chức Thái phó chứ không phải Thái bảo. Văn khắc cũng cho biết Dương
Cảnh Thông làm Thứ sử châu Phú Lương kiêm Tiết độ sứ quan sát sứ các châu Quảng
Nguyên, Tư Lang chức không thấy nhắc đến châu Lạng. Vì chuông chùa Sùng Khánh
do chính Dương Cảnh Thông chỉ đạo đúc nên rõ là sách Việt sử lược chép nhầm. Trong
chú thích mục [106] bài viết Khảo cứu về Tư Lang châu Sùng Khánh tự chung minh
(1113) của hai tác giả Phạm Lê Huy và Trần Quang Đức có dẫn nguồn Đại Việt sử
lược. Quyển Trung. Nhân Tông chép: quần thần thượng biểu xưng hạ bái Dương Cảnh
Thông vi Thái bảo. Như thế, vào mùa hạ năm 1072 [Thứ sử Phú Lương] Dương Cảnh
Thông dâng con hươu trắng, quần thần dâng biểu xin ban cho Cảnh Thông chức Thái
[phó] và vua đã đồng ý. Sử chép rằng vua [Nhân Tông] nhưng kịch bản do Thượng
Dương Thái hậu giàn dựng. Sách Toàn thư chép năm 1117 Phò mã lang Dương Cảnh
Thông dâng hươu trắng ? Vậy Cảnh Thông lấy công chúa thời điểm nào ? Qua văn
khắc trên chuông chúng ta biết rằng công chúa tên là Thọ Dương. Thật khéo trùng
hợp chữ Dương với Thái hậu của cung Thượng Dương. Có khi nào sự việc không hẳn
là ngẫu nhiên, mà hoàn toàn có tính chủ đích ? Văn khắc có nhắc đến tiên vương,
có lẽ là vua Lý Thánh Tông [Chú thích số 85. Hai tác giả dẫn phần chú sách Hán
thư của Nhan Sư Cổ rằng: Tiên hậu tức chỉ tiên quân. Vì văn chép là: 先 后 ?] Văn trên chuông Sùng Khánh được khắc năm 1113 có nhắc đến
sự kiện đức kim thượng lễ đãi khác thường, gia phong phẩm trật liền sau sự kiện
Dương Cảnh Thông được triệu về triều, gả công chúa Thọ Dương. Lại thêm văn khắc
nhắc đến việc kính cầu cho ngài Thái phó họ Dương cho tới lệnh lang nối dõi trở
xuống. Từ những thông tin này tôi ngờ rằng: thời điểm Dương Cảnh Thông về triều
cưới con gái của vua Lý Thái Tông là công chúa Thọ Dương vào mùa hạ năm 1072. Cuộc
hôn nhân giữa Dương Cảnh Thông và Thọ Dương công chúa là kế hoạch của Thái hậu
Thượng Dương nhằm củng cố quyền lực, gia thêm vai trò của họ Dương trong chính
trường. Rất có thể công chúa Thọ Dương là con gái của Thái hậu cung Thượng
Dương. Có khi nào Tiên hậu trong văn khắc trên chuông Sùng Khánh là viết về
Thượng Dương Thái hậu ?
Sách Lý Thường Kiệt: Lịch sử ngoại
giao và tông giáo triều Lý viết: “Sau khi Lý Thánh-tông mất, Tống đã sai viên
chuyển-vận-sứ Quảng-tây là Khang Vệ sang điếu (tháng 3, N.Tý 1072, TB 231/4a)
(...) Tháng 8, có lệnh chung bãi bỏ các viên câu-đương công-sự ở các ti
kinh-lược và an-phủ, nhưng trừ tỉnh Quảng-tây; “vì Ôn Cảo bấy giờ giữ chức ấy,
vả lại vừa có ý đánh Giao-chỉ” (TB 237/23b). Lệnh đặt bảo-giáp ở các lộ đã ban
ra. Tháng giêng năm Q.Su (1073) Hứa Ngạn-Tiên là viên coi việc ấy ở Lưỡng-Quảng
tâu: “Đã sai các huyện-lệnh lập bảo-giáp để thay các thứ lính đã đặt từ trước”
(TB 242/3b). Tống Thần-tông triệu Tiêu Chú về hỏi tình hình Giao-chỉ và
sách-lược chinh phạt (ĐHBL). Chú cho việc ấy khó. Vua ngạc nhiên, nhắc lại câu
người ta nói: Giao-chỉ bị thua ở Chiêm-thành, quân không còn nổi một vạn; có
thể tính ngày lấy được (VI) (...) Có viên hình-bộ lang-trung là Thẩm Khỉ, nói
quả quyết rằng: “Giao-chỉ là đồ hèn mọn, không lý gì không lấy được”. Vì thế
vua chọn Khỉ thay Chú coi Quế-châu và kiêm chức Quảng-tây kinh-lược-sứ (tháng 2
năm Q.Su 1073; TB 242/14a). Khỉ liền xin: “Từ nay nếu ở Quảng-tây có biên sự, sẽ
theo lệ Thiểm-tây, để ti kinh-lược được xử trí rồi tâu sau”. Vua bằng lòng. Khỉ
lại sai người ra ngoài biên giới để lo liệu công việc (...) Thoạt tiên, Khỉ
muốn tổ chức tây bắc Quảng-tây, để cho yên đường tiếp tế hạt mình. Cho nên, đặt
các doanh trại ở các châu Dung, Nghi. Đem quân đánh trại Vương-khẩu, binh lính
bị chết nhiều (ĐHBL 8). Thế mà Khỉ tâu dối về triều rằng các man dân theo mình.
Rồi tự xây thành, đắp lũy. Làm dân vùng Nghi, Dung oán. Dân các động nổi lên,
chém giết quan quân (theo lời Tống Thần-tông, TB 272/2a). Tháng 4 (Q.Su, 1073),
Khỉ xin lấy động-đinh trong năm mươi mốt động thuộc Ung-châu để kết thành bảo
giáp và sai quan dạy và kiểm tra. Vua Tống không những bằng lòng, mà còn cấp
tiền cho để thi hành (TB 244/8b). Khỉ sai người vào các khê động, kiểm điểm dân
đinh, lập thành bảo-ngũ, phát các trận đồ dạy chúng tập. Sau đó lại bắt các
thuyền dọc bờ biển, thường dùng chở muối, để tập thủy chiến. Sợ người nước ta
biết những hành động ấy, Khỉ ra lệnh cấm ta không được sang buôn bán ở đất Tống
(TS 334). Quan Tống hết sức dụ dỗ các tù trưởng. Tháng 4 năm Quí Sửu 1073, Ôn
Cảo xin tăng hàm cho tụi Nùng Tôn-Đán (V/8) và Nùng Trí-Hội (VI/7) là tụi đã bỏ
Lý theo Tống. Tông Đán được chức đô-giám Quế-châu, Trí-Hội coi châu Quí-hóa; và
cả hai được thăng hàm cung-bị-khố phó-sứ (TB 244/3b). Thẩm Khỉ lại sai người dụ
Lưu Kỷ ở Quảng-nguyên. Ngày 15 tháng 10 năm Q.Su (1073) Khỉ tâu: “Lưu Kỷ ở
Giao-chỉ muốn theo ta. Nếu không nhận, sợ nó làm loạn như Nùng Trí-Cao” (TB
247/22a). Cũng vào khoảng cuối năm ấy (Q.Su 1073), có bọn Nùng Thiện-Mỹ ở châu
Ân-tình (vùng châu Cảm-hóa thuộc Bắc-Kạn, giáp châu Thất-khê, còn có làng
Ân-tình, chính là đó, xem ĐKĐD) nghe lời Thẩm Khỉ dỗ, đưa bảy trăm bộ hạ vào
xin theo Tống (TB 259/13b). Viên đô-tuần-kiểm là Tiết Cử nhận (TB 251/1a) (...)
Tháng ba năm G.Dn (1074) viên chuyển-vận-sứ Quảng-tây tố cáo việc ấy (TB
251/1a). Vua Tống bảo xét và dặn rằng: “Chúng nó đã quy-ninh, thì nên cứu giúp”
(TB 259/13b) (…) Thẩm Khỉ tới coi Quế-châu được một năm rồi, mà trong hạt
Quảng-tây xẩy nhiều vụ lôi thôi. Triều đình Tống sợ Khỉ gây chuyện với ta không
đúng cơ hội. Vua Tống và An-Thạch đã trở nên không thích Khỉ. Nhân bàn chuyện
Lưu Kỷ, vua Tống nói: “Việc Giao-chỉ có thể làm xong được. Nhưng sợ Khỉ không
làm nổi”. An-Thạch trả lời :”Khỉ tự cho dễ làm xong. Nhưng việc binh rất khó.
Sợ Khỉ chưa dễ đã làm xong” (tháng 10, Q.Su 1073, TS 247/22a)”.
* Sự kiện Lý Thánh Tông băng vào tháng 1/1072 thổi bùng lên
tham vọng của Tống triều. Rất nhiều các hoạt động chuẩn bị cho cuộc nam chinh
diễn ra. Vài thế lực vùng biên giới cũng nhân việc này mà cố thoát ra khỏi sự
kiềm toả của Thăng Long. Tháng 3/1072 viên chuyển vận sử Quảng Tây là Khang Vệ
sang Thăng Long trước là điếu vua Thánh Tông, sau là thăm dò tình hình Đại
Việt.
Sách Việt sử lược chép: “Năm Nhâm Tý [1072] là năm Thần Võ
thứ 4. Mùa thu tháng 7 (…) An táng vua Thánh Tông (…) Quan Cáp núi là Nguỵ
Trưng vì tuổi già nên từ chức quan về nghỉ, vua hạ chiếu ban cho cái ghế tựa và
cây gậy (…) Lập hoàng hậu 2 người. Năm Quý Sửu [1073] là năm thứ 2. Tháng giêng
vua đổi niên hiệu là Thái Ninh năm thứ nhất, tôn Thái phi làm Thái hậu Linh
Nhân. Thái hậu Linh Nhân có tính hay ghen ghét, thấy bà đích mẫu được tham dự
việc triều chính mới bảo vua rằng: Mẹ già khó nhọc nuôi con để có ngày nay, đến
lúc phú quý thì người khác hưởng, ăn ở như thế thì đặt mẹ già này vào chỗ nào ?
Nhà vua tuy nhỏ bé nhưng cũng có hiểu biết chút ít, rằng mình không phải là con
của Thái hậu Thượng Dương, bèn đem Thái hậu Thượng Dương và 72 thị nữ ở cung
Thượng Dương rồi bức bách bắt đem chôn sống theo vua Thánh Tông (…) Tháng 8 (…)
Vua Tống Thần Tông phong vua làm Quận vương”.
Sách Toàn thư chép: “Quý Sửu, Thái Ninh năm thứ 2 [1073]
Bấy giờ mưa dầm, rước phật Pháp Vân về kinh để cầu tạnh. Cúng thần núi Tản
Viên. Giam Hoàng thái hậu họ Dương, tôn Hoàng thái phi làm Linh Nhân hoàng thái
hậu. Linh nhân có tính ghen, cho mình là mẹ đẻ mà không được dự chính sự, mới
kêu với vua rằng: Mẹ già khó nhọc mới có ngày nay, mà bây giờ phú qúy người
khác được hưởng thế thì sẽ để mẹ già vào đâu ? Vua bèn sai đem giam Dương thái
hậu và 76 người thị nữ vào cung Thượng Dương, rồi bức phải chết chôn theo lăng
Thánh Tông [Sử thần Ngô Sĩ Liên nói: Nhân Tông là người nhân hiếu, Linh
Nhân là người sùng Phật, sao lại đến nỗi giết đích thái hậu, hãm hại người vô
tội, tàn nhẫn đến thế ư ? Vì ghen là thường tình của đàn bà, huống chi lại mẹ
đẻ mà không được dự chính sự. Linh Nhân dẫu là người hiền cũng không thể nhẫn
nại được, cho nên phải kêu với vua. Bấy giờ vua còn trẻ thơ, chỉ biết chiều lòng
mẹ là thích, mà không biết là lỗi to. Thái sư Lý Đạo Thành phải ra trấn bên
ngoài, biết đâu chẳng vì can gián việc ấy ?] Nhà Tống phong vua làm Giao Chỉ
Quận Vương. Thái sư Lý Đạo Thành lấy chức Tả gián nghị đại phu ra coi châu Nghệ
An. Đạo Thành lập viện Địa Tạng ở trong miếu Vương Thánh châu ấy, ở giữa viện
đặt tượng Phật và vị hiệu của Thánh Tông, sớm hôm thờ phụng [Sử thần Ngô Sĩ
Liên nói: Đạo Thành là đại thần cùng họ, đương khi để tang Thánh Tông vì
có việc ra trấn ở ngoài, lòng cảm nhớ tiên đế là chân tình, nhân mượn cớ thờ
Phật để thờ vua, đó chỉ là việc nhất thời mà thôi. Về sau những người trấn thủ
châu Nghệ An vẫn lấy nơi ấy làm chỗ phụng thờ Thánh Tông, suốt cả triều Lý
không ai chê việc ấy là trái. Phàm vua không được tế ở nhà bề tôi, cha không
được tế ở nhà con thứ, huống chi lại thờ chung với người Di. Đó là lỗi của nhà
Lý sùng Phật]”.
Văn bia chùa Linh Xứng do sư Hải Chiếu soạn, được khắc vào
năm Bính Ngọ niên hiệu Duệ Vũ thứ 7 [1026] viết: “Giữa khoảng niên hiệu Thần Vũ
(1069-1072) được phong chức Thái úy đồng trung thư môn hạ chương sự, giúp đỡ
việc chính sự của nước nhà, muôn dân được nhờ ơn rất nhiều vậy. Đầu niên hiệu
Thái Ninh (1072-1075) đức kim thượng Minh hiếu hoàng đế lên ngôi, Thái úy lấy
tư cách là Y Doãn. Hoắc Quang được nhà vua giáo phó nhiếp chính và gửi gắm công
việc xã tắc” [dẫn theo Nguyễn Đức Vân và Đỗ Văn Hỷ]
* Trong khi sách Việt sử lược chép năm Quý Sửu là niên hiệu
Thái Ninh năm thứ nhất thì sách Toàn thư lại chép năm Quý Sửu là niên hiệu Thái
Ninh năm thứ hai. Vì sao có sự sai khác này ? Cả sách Việt sử lược và Toàn thư
đều chép mùa xuân tháng giêng năm Nhâm Tý 1072 Thái tử Càn Đức lên ngôi vua, mà
thông thường thì khi thái tử lên ngôi sẽ đổi niên hiệu khác. Văn khắc tại chùa
Linh Xứng cho chúng ta biết năm Thái Ninh thứ nhất là năm đức kim thượng Minh
hiếu hoàng đế lên ngôi. Vậy có thể sách Toàn thư chép đúng, vào tháng 1/1072
vua Lý Nhân Tông đổi niên hiệu từ Thần Vũ sang Thái Ninh. Viết là có thể vì nếu
giả như sách Toàn thư và sách Việt sử lược chép sai, năm 1073 Lý Nhân Tông mới
lên ngôi, khi ấy năm Thái Ninh thứ nhất là năm Quý Sửu chứ không phải là Nhâm
Tý.
* Thế nhưng có vài chi tiết khác biệt trong 2 bộ sử sớm nhất
còn tồn tại, ấy là: những sự kiện xảy ra trong năm 1072 trong sách Toàn thư
không được chép nhiều. Thông thường, khi 1 vị thái tử lên ngôi sẽ có rất nhiều
việc phải làm như đặt lại chức quan, ân xá miễn thuế, xây chùa ngự xem. Thêm
nữa sách Toàn thư cũng không thấy chép về Lý Thường Kiệt ? Trong khi năm 1072
sách Việt sử lược chép rất nhiều sự kiện mà 3 sự kiện rất đang quan tâm là: ban
tước phong cho Lý Thường Kiệt làm Kiểm hiệu thái uý vào tháng liền sau tháng 4,
an táng vua Thánh Tông vào khoảng liền sau tháng 7 và lập hoàng hậu hai người.
Vua được 6 tuổi đã lập hoàng hậu tới 2 người ? Rõ ràng việc lập hoàng hậu chỉ
nhằm mục đích liên kết các dòng họ mà thôi. Ngoài ra còn có 2 sự kiện khá thú
vị, ấy là sự kiện rước phật ở Pháp Vân về Kinh sư để cầu tạnh mưa và sự kiện tế
núi Tản Viên. Xét lời khóc của Thái phi Linh Nhân với vua Nhân Tông và trình tự
chép 2 sự kiện rước phật, tế núi chúng ta đoán rằng: sách Toàn thư và sách Việt
sử lược chép cùng nguồn tài liệu. Nhưng trong khi, trước sau của sự kiện rước
phật và tế núi còn có các sự kiện khác xảy ra năm 1072 được chép trong sách
Việt sử lược thì sự kiện rước phật và tế núi là sự kiện được sách Toàn thư chép
đầu tiên vào năm 1073. Thêm nữa sách Toàn thư chép kết thúc năm 1072 vào mùa hạ
tháng 4 và bắt đầu năm 1073 mà không có mốc thời gian, chính xác hơn, cả năm
1073 trong sách Toàn thư không hề có mốc thời gian ? Rõ ràng là đoạn chép này
của sách Toàn thư đã không còn giống với những đoạn khác! Chúng ta có thể đoán
định rằng: sách Toàn thư đã vừa lược chép lại vừa gom chép. Lược chép ở chỗ, có
nhiều sự kiện sách Toàn thư đã bỏ mà không chép và gom chép ở điểm, sự kiện
đang lẽ phải xảy ra năm 1072 thì sách Toàn thư đã chép gộp sang năm 1073. Chỉ
duy có sự kiện bà Linh Nhân khóc với vua Nhân Tông là cả 2 bộ sách đều chép
cùng vào năm 1073 vậy thì rõ là nguồn tài liệu của 2 bộ sử này cũng chép vào
năm 1073.
Sách Lý Thường Kiệt: Lịch sử ngoại
giao và tông giáo triều Lý viết: “Tháng ba năm sau (Q.Su 1073) sứ ta là Lý
Hoài-Tố tới cống, vua Tống phong vua Lý Nhân-tông tước Giao-chỉ quận-vương”.
* Tháng 3 vua Tống phong cho Lý Nhân
Tông tước Giao Chỉ quận vương. Cả sách Toàn thư và Việt sử lược đều chép sự
kiện này. Tuy nhiên chúng ta không biết được rằng thời gian chép trong 2 bộ sử
là thời gian trong sử phương bắc hay thời gian Lý Hoài Tố về Thăng Long báo tin
cho vua Lý Nhân Tông. Sách Việt sử lược chép thông tin vua Lý được phong tước
vương là liền sau tháng 8/1073 trong khi sách Toàn thư không chép thời gian,
nhưng liền ngay sau sự kiện phong tước vương năm 1073 là sự kiện Lý Đạo Thành
bị biếm làm Tả gián nghị đại phu và phải ra coi châu Nghệ An. Theo như sách
Việt sử lược thì thời gian vua Lý được phong tước vương là thời gian Lý Hoài Tố
về tới Thăng Long và thông báo lại việc đi sứ. Và việc thông báo chuyến đi sứ
phải xảy ra sau tháng 8, nhưng từ thời gian đó cho đến tháng 12 còn rất nhiều
thời gian, đủ để sự kiện Lý Đạo Thành bị biếm coi châu Nghệ An. Tuy nhiên sự
kiện Lý Thường Kiệt tấn công 3 châu Ung Khâm Liêm của nhà Tống thì 2 bộ sự chép
khác nhau rõ rệt. Sách Việt sử lược chép vào liền sau tháng 9/1074, sách Toàn
thư chép liền trước tháng 8/1075. Sự khác nhau này có phải do nguyên nhân của
sự sai khác trong niên hiệu hay không ? Có lẽ là không vì thấy cả sách Toàn thư
và Việt sử lược bên cạnh việc chép theo niên hiệu còn chép theo can chi. Dù sự
khác nhau có thể nào thì qua những sự kiện được cả 2 bộ sử chép như tha tù ở
phủ đô hộ, vua ngự ở điện Thiên An coi chầu, chim sẻ trắng đậu ở cấm đình thì
chúng ta có thể khẳng định chắc chắn rằng 2 bộ sử cùng chép từ 1 nguồn mà ra.
Nhưng vì sao có sự sai khác ? Theo tôi do sách Việt sử lược bị đưa về phương
bắc nên gần như được bảo tồn so với nguyên gốc, trong khi bản song sinh với
Việt sử lược lưu hành tại phương nam, đã trải qua nhiều lần tu sửa, mà chủ yếu
là đối với các sự kiện có thể kiểm chứng được như sự kiện Lý Thường Kiệt đánh
Tống chẳng hạn, còn đối với các sự kiện không thể kiểm chứng được như chim sẻ
trắng đậu ở cấm đình thì được giữ nguyên so với nguyên gốc. Vậy sự kiện tu sửa
bắt đầu từ khi nào ?
Sách An Nam chí lược chép: “Trần Tấn.
Thái vương dùng làm tả lang, thăng chức Hàn trưởng, làm sách Việt chí (…) Lê
Hưu. Vừa có tài vừa có hạnh, làm thầy Chiêu Minh vương, đổi làm Kiểm pháp quân,
sửa Việt chí”.
* Chúng ta không biết cuốn Việt chí
có phải là Đại Việt sử ký hay không nhưng ngờ rằng cuốn Việt chí là nội dung cơ
bản của cuốn Đại Việt sử ký. Sách Việt sử lược từ Đại Việt sử ký mà ra hay từ
Việt chí, chúng ta sẽ bàn trong bài khác. Còn khó khăn nữa là ngoài những sự
kiện khác nhau rõ rệt giữa 2 bộ sử, còn có các sự kiện chỉ sai khác chút xíu về
thời gian ? Có lẽ nguyên nhân từ chế độ lịch ở mỗi thời mỗi khác chẳng ? Cuối
cùng chúng ta có thể kết luận gì về 2 bộ sử này ? Thứ nhất là cả 2 đều được chép từ 1 nguồn tài liệu. Thứ hai là sách Toàn thư đã được tu sửa
theo thời gian qua các sử gia, còn sách Việt sử lược gần như được bảo tồn. Thứ ba là riêng quãng thời gian từ năm
1072 đến 1075 có vẻ như thông tin sử trong 2 bộ sử trái ngược với tên gọi của
sách. Sách Việt sử lược không hề chép lược tí nào và sách Toàn thư lại chép
thiếu nhiều sự kiện. Thứ tư là tuy
sách Việt sử lược chép sai về thời gian diễn ra các sự kiện, song sự kiện luôn
luôn được gắn với 1 mốc thời gian nào đó (có lẽ chính sự sai khác về mốc thời
gian của những sự kiện có thể kiểm chứng đã chứng tỏ rằng sách ấy chép sai ngay
từ đầu và không được tu sửa trong suốt thời gian tồn tại, nói cách khác chính
là bản sao đúng với bản gốc bị sai) trong khi sách Toàn thư thì các sự kiện rất
ít khi gắn với 1 mốc thời gian cụ thể nào đó ? Rất có thể tác giả tu sử sách
Toàn thư đã rất lúng túng trước những thông tin có thể kiểm chứng được, chính
những thông tin có thể kiểm chứng được trái ngược với thông tin trong bản gốc,
khiến người soạn lại không biết sắp xếp các sự kiện sao cho hợp lý với trình tự
thời gian, thành ra để an toàn, người soạn đã lược đi các mốc thời gian cụ thể,
nên chỉ còn lại các sự kiện.
* Trong đoạn sử từ năm 1072 đến năm
1075 của sách Toàn thư thì năm 1073 là đáng chú ý nhất. Trước hết không thấy
ngày tháng mùa xuất hiện trong năm 1073 ? Sách Việt sử lược chép nhiều hơn 3 sự
kiện: Chiêm Thành vào cống, tháng 7 rồng vàng hiện ở gác Du Thiền, tháng 8 châu
Phong dâng con hươu trắng. Sách Toàn thư chép lời khóc của bà Linh Nhân giống
hệt với sách Việt sử lược, lại chép việc vua Tống phong Quận vương cho vua Lý
nhưng không thấy chép đến thời gian, trong khi sự kiện này có thể kiểm chứng để
viết cụ thể hơn. Vậy rõ rằng các sự kiện giống nhau trong 2 bộ sách đều được
chép đúng từ nguyên bản. Trong khi đó sách Toàn thư lại bỏ đi 3 sự kiện nhưng
thú vị lại chép thêm 1 sự kiện, ấy là: Lý Đạo Thành ra coi châu Nghệ An, mang
theo vị hiệu của Thánh Tông để thờ phụng. Xét lời bình của Ngô Sĩ Liên về tục
thờ Thánh Tông ở viện Địa Tạng và hành động của Đạo Thành mang phảng phất tự ái
của Nho gia thì e rằng: sự kiện Lý Đạo Thành bị biếm ra coi châu Nghệ An được
thêm vào so với bản gốc. Thêm nữa vào mùa xuân năm 1074 Lý Đạo Thành lại được
cất nhắc làm Thái phó bình chương quân quốc trọng sự. Thời gian thăng giáng quá
gần cùng với các sự kiện khác khiến ta nghĩ rằng sự việc diễn ra như sau: Sử
gốc chép năm 1072 Nguyễn Nhật Thành được ban chức Binh bộ thị lang. Trong khi
đó sử cũ chép năm 1054 Nguyễn Đạo Thành được ban chức Thái sư, vậy là Lý Đạo
Thành bị giáng chức rồi. Người soạn sử ngờ rằng việc bị giáng chức của Đạo
Thành là liên quan tới sự kiện tranh giành giữa Thượng Dương thái hậu và Nguyên
phi Ỷ Lan. Vậy thì Lý Đạo Thành phải bị biếm sau sự kiện Thái hậu Thượng Dương
bị bức tử, nhưng không biết chính xác mốc thời gian. Và nhân có Tục thờ Thành
Tông ở viện Địa Tạng, lại thêm tục ấy gắn với câu chuyện liên quan tới Lý Đạo
Thành, nên liên kết 2 sự kiện để chép thành sự kiện: Lý Đạo Thành bị biếm ra
coi Nghệ An (việc vua Thánh Tông được thờ ở viện Địa Tạng có lẽ bắt nguồn từ
cuộc tấn công Chiêm Thành năm 1069, còn vì sao nó có liên kết với Lý Đạo Thành
thì chưa xác định được).
* Có 2 câu hỏi quan trọng: Thứ nhất Nguyễn Nhật Thành có phải là Lý
Đạo Thành hay không ? Thứ hai có khi
nào sự kiện tranh giành giữa Thượng Dương và Linh Nhân là kiến tạo không ? Tôi
ngờ rằng Nguyễn Nhật Thành và Lý Đạo Thành không phải là 1 người. Có lẽ sử gia
Ngô Sĩ Liên đã lầm chăng ? Như trên chúng ta có 2 chứng cớ, ấy là: Trong lúc
phe Thượng Dương đang thắng thế thì vì sao Nguyễn Nhật Thành bị hạ xuống làm
thị lang ? Thêm nữa vì kiêng huý Đạo nên chép thành Nhật vậy sao ở các mục khác
không kiêng ? Giờ chúng ta lại có thêm kịch bản khác rằng rất có thể thông tin
Lý Đạo Thành bị biếm ra coi châu Nghệ An là đời sau chép thêm vào ? Và tôi còn
chứng cớ nữa nhưng sẽ trình bày trong phần dưới. Về việc có sự tranh giành giữa
Thượn Dương Thái hậu và Nguyên phi Ỷ Lan hay không ? Đó chẳng qua chỉ là sự tư
duy ngược lại so với lập luận rằng: Lý Đạo Thành bị biếm ra coi Nghệ An là cách
mà các sử gia tạo lý lịch cho tục truyền thờ Thánh Tông ở viện Địa Tạng, vậy
thì cuộc tranh giành quyền hành có phải là kiến tạo cho việc Lý Đạo Thành bị
biếm hay không ?
Sách Lý Thường Kiệt: Lịch sử ngoại
giao và tông giáo triều Lý viết: “Năm sau (Giáp dần 1074) Chiêm-thành lại bắt
đầu quấy biên cảnh (TT) và dọc biên giới miền bắc, Tống cũng sửa soạn việc động
binh. Có lẽ, vì thế, Lý Thường-Kiệt lo toan đoàn kết trong nước để kết thúc
nhân tâm. Việc đầu tiên là xóa sự hiềm khích gây ra vì chuyện Thượng-dương thái
hậu. Năm ấy (Giáp-dần 1074) mời Lý Đạo-Thành từ Nghệ-an trở về, giữ chức
Thái-phó, bình-chương quân quốc trọng sự, hiệp tác với Thuờng-Kiệt coi việc dân
và quân trong nước, để cho Thường-Kiệt rảnh tay sắp đặt việc chống Tống, và
thay ông trong khi phải xuất ngoại cầm quân. Lý Đạo-Thànhlà một bậc lão thành,
được sĩ phu ngưỡng vọng. Việc ông bị biếm vào Nghệ-an chắc đã gây mầm chia rẽ
lớn ở triều. Bấy giờ, bên triều Tống, cũng có việc hai phái tân cựu cạnh tranh
(...) Chắc rằng, ở nước ta cũng chịu ảnh hưởng của cuộc xung đột ấy. Vua còn
trẻ, đáng lẽ các lão thần phụ chính. Mà bây giờ, quyền lại vào tay một vũ tướng
mới hơn 50, thêm là một hoạn quan. Phái già chắc bất mãn. Muốn lấy lòng phái
ấy, Thường-Kiệt tất phải hậu đãi các lão thần. Vì vậy mới có việc mời Lý
Đạo-Thành trở về dự chính và việc vua hạ chiếu cho phép những công thần 80
tuổi, mỗi khi vào chầu, được chống gậy và ngồi ghế (TT)”.
* Sách Toàn thư và sách Việt sử lược
đều có chép về việc hậu đãi các lão thần, tuy nhiên mỗi sử lại chép khác nhau. Sách
Toàn thư chép thì đã được Giáo sư Hoàng Xuân Hãn sử dụng hợp lý sự kiện. Thế
nhưng tôi muốn bàn thêm về sự kiện hậu đãi lão thần chép trong sách Việt sử
lược “Năm Nhâm Tý [1072] Quan Cáp núi là Nguỵ Trưng vì tuổi già nên từ chức
quan về nghỉ, vua hạ chiếu ban cho cái ghế tựa và cây gậy”. Tuy câu chữ có đôi
chút khác với sách Toàn thư song về nội dung thì đều hàm chứa việc hậu đãi của
vua đối với các lão thần. Điểm thú vị là trong khi sách Toàn thư chép sự kiện
hậu đãi hoàn toàn độc lập và xảy ra sau khi sự kiện bức tử Thượng Dương thái
hậu, còn trong sách Việt sử lược thì việc hậu đãi gắn liền với quan Nguỵ Trưng
và diễn ra trước sự kiện Thượng Dương thái hậu bị bức tử. Nếu giả như sách Việt
sử lược chép đúng thì sự kiện hậu đãi các lão thần không bắt nguồn từ mục đích
của Lý Thường Kiệt trong việc làm dịu xích mích với Lý Đạo Thành. Và nếu đúng
thì đây cũng là bằng chứng cho thấy không có việc triều đình mời Lý Đạo Thành
từ châu Nghệ An về dự triều chính.
* Sự kiện khá thú vị do sách Việt sử
lược cung cấp, ấy là “Năm Quý Sửu [1073] Tháng 8 châu Phong dâng con hươu
trắng”. Chúng ta đã thấy sự kiện năm năm 1072 Thứ sử châu Phú Lương Dương Cảnh
Thông dâng con hươu trắng có ý nghĩa như thế nào ? Câu hỏi tương tự việc dâng
hươu trắng của châu Phong có mang ý nghĩa gì không ?
Mộ chí của Phụng Thánh phu nhân họ Lê
viết: “Bà là phu nhân của Thần Tông hoàng đế, họ Lê huý là Lan Xuân, tức là con
gái út của Phụ Thiên Thái vương. Mẹ bà là công chúa Thuỵ Thánh, con gái cả của
Dự Tông hoàng đế. Bà trưởng là công chúa Thuỵ Thánh, tức là con gái cả của
Thánh Tông hoàng đế. Ông nội là Phò ký uý, giữ chức Quan sát sứ ở bảo sở châu
Chân Đăng, cháu gọi Ngự Man Thái vương bằng chú, cũng là cháu nội Đại Hành
hoàng đế nhà Lê. Phụ Thiên Thái vương có 20 người con, một người là Thái hậu,
ba người là phu nhân, bốn người là công chúa, mười hai người là thái tử. Năm
Giáp Dần, niên hiệu Thiên Chương Bảo Tự thứ 2 [1134] lúc mới đầu, hoàng đế kén
chọn bà Cảm Thánh hoàng thái hậu, con gái cả của Phụ Thiên Thái vương vào cung,
về sau thấy phu nhân có nhan sắc, lại kiêm cả tứ giáo, liền đưa lên làm phi (…)
Năm Bính Thìn niên hiệu Thiên Chương Bảo Tự thứ 5 [1137] được tiến phong Phụng
Thánh phu nhân” [dẫn theo Lâm Giang]
Sách Việt sử lược chép: “Năm thứ 2
niên hiệu Hưng Thống [991] vua phong cho con của người em làm Ngữ Man vương ở
Phong Châu”.
* Họ Lê châu Phong và châu Chân Đăng
rất có thế lực. Nguyên phi Ỷ Lan có lẽ không phải là cô gái nhà quê như trong
những câu chuyện dân gian thường kể về bà. Tôi ngờ rằng bà xuất thân trong tộc
họ Lê danh giá và thế lực. Sự kiện châu Phong dâng hươu trắng năm 1073 biểu
hiện họ Lê đang rất thịnh vượng. Có lẽ đây là dấu hiệu cho thấy cuộc tranh
quyền giữa Thái hậu Thượng Dương và Nguyên Phi Ỷ Lan đã kết thúc. Thêm nữa, liền
trước sự kiện châu Phong dâng hươu trắng, là sự kiện rồng vàng xuất hiện ở gác
Du Thiền. Có phải sách sử muốn thông tin rằng bà Ỷ Lan đã nhiếp chính. Nhưng
mọi sự có phải như sách sử chép ?
Sách Mộng khê bút đàm [1086 –
1093] [của Thẩm Quát] chép: “Hàn Đức lên ngôi, hoạn quan Lý Thượng Cát 李尚吉 cùng
mẹ là Lê thị hiệu là Yên Loan Thái phi 燕鸞太妃 cùng chủ trì quốc sự”
[dẫn theo Phạm Lê Huy]
* Theo như văn bia chùa Linh Xướng
thì Lý Thường Kiệt được phong chức Thái uý đồng trung thư môn hạ chương sự vào
khoảng giữa niên hiệu Thần Vũ (1069-1072) và giúp đỡ việc chính sự. Trong khi
đó sách Việt sử lược chép “Năm Nhâm Tý dùng quan trong hàng Đại liêu ban là
Nguyễn Thường Kiệt làm Kiểm hiệu thái uý, Nguyễn Nhật Thành làm Binh bộ thị
lang”. Sẽ là rất khó hiểu khi mà niên hiệu Thần Vũ vua Lý Thánh Tông đã phong
cho ngài chức Thái uý, nay vua Lý Nhân Tông lên ngôi lại phong ngài làm Thái uý
? Ngờ rằng sách Việt sử lược chép sai ? Sự đúng là niên hiệu Thần Vũ ngài đã
được phong Thái uý đồng trung thư môn hạ chương sự và giúp vua Lý Thánh Tông
việc nước.
Sách Lý Thường Kiệt: Lịch sử ngoại giao và tông giáo triều Lý
viết: “Tháng 7 năm C.Tu (1070) An-Thạch bàn với vua việc lấy dân binh thay mộ
binh, có nói: “Ở Quảng-Nam thú binh chết nhiều, cần phải dùng gấp dân quân” (TB
213/6b) (…) Tháng 10 năm ấy, viên coi Quế-châu là Phan Bội tâu: “Tưởng
Thánh-Du, coi việc văn tự về khê động Ung-châu, vừa tới nhậm chức mà đã lập tức
nói muốn đánh lấy Giao-chỉ. Sợ sẽ sinh sự, xin đổi y” (TB 216/a) (…) Vua Tống
vẫn muốn dời kinh lược từ Quế-châu xuống Ung-châu, để phòng bị sự “Giao-chỉ
phản trắc”. Sau lại bảo đợi sứ vua Lý sang đến nơi sẽ hay (TB 216/6b). Tô Giám,
một viên có công trong cuộc chống Nùng Trí-Cao và ở lâu vùng Lưỡng-Quảng, rất
am hiểu tình thế nước ta, được bổ coi Ung-châu (tháng 10 năm C.Tu 1070, TB
216/6b). Tháng chạp, sứ ta là Lý Kế-Nguyên tới, quan Tống ngăn không cho tới
Biện-kinh (kinh đô ở gần Khai-phong, tỉnh Hà-nam) và đòi ta phải trả trước dân
Tống, mà ta đã bắt (TB 218/12b). Đồng thời, Tống tăng số quân ở Quảng-đông và
Quảng-tây thêm 1200 tên. Cuối năm C.Tu (1070) tình thế giữa Tống với Lý coi
chừng đã quá găng. Viên chuyển-vận-sứ Quảng-tây là Đỗ Kỷ dâng sớ nói rất rõ
ràng về nội tình nước ta, kể rõ núi sông, đường sá, binh dân. Vua đưa cho Vương
An-Thạch xem và định giao cho viện khu mật giữ làm tài liệu. An-Thạch hiểu ý
Thần-tông muốn đánh Giao-chỉ, liền can. An-Thạch nói: “… lại làm Giao-chỉ sinh
nghi” (...) Tháng giêng năm T.Ho (1071) Tiêu Chú có chỉ bổ coi việc quân mã ở
vùng Hà-đông, là vùng còn đánh nhau với Hạ. Chú không muốn đi (…) vua Tống sai
Chú coi Quế-châu (TB 219/4b) (...) Lúc Chú tới Quế-châu, các tù trưởng xa gần,
từ đạo Đặc-ma tới châu Điền-đống đều kéo nhau tới yết kiến. Chú đều mời mọc ân
cần, hỏi han hình thế sông núi, tình trạng nhân dân mà Chú đã từng quen biết
mười năm trước. Ai nấy đều bằng lòng. “Cho nên Lý Càn-Đức (Nhân-tông) động tĩnh
thế nào, Chú đều biết rõ” (TB 242/13b và TS 334) (...) Tống Thần-tông phê rằng:
“Gần đây, đã nhiều lần thám báo rằng giặc Quảng-nguyên tụ tập. Cuối cùng tin
không đúng. Khiến dân khê động ở không yên. Sợ tin đó là giặc giảo-hoạt cố ý hư
truyền ra, để làm náo động nhân tình, rồi nhân đó, hiếp bức dân chúng theo nó.
Đó là việc mà bọn Hoàng Trọng-Khanh, Lư Báo đã làm. Nếu để lâu không xử trí,
thì sự lý không tiện. Vậy, kíp sai Tiêu Chú tới đó mà xử trí, chớ để thành
chuyện to lớn” (tháng 11 T.Ho 1071;TB 288/1a). Thánh 5 năm sau (N.Ty, 1072),
Tiêu Chú xin ước-thúc dân các khê động và nói: “Mỗi khi nghe báo có giặc qua
địa hạt mình, mà các tri châu không lập tức tới đánh bắt, thì xin đem quân pháp
trị tội”. Ý Tiêu Chú là cốt bắt buộc các quan địa phương canh phòng cẩn mật”.
* Qua đó chúng ta có thể đoán định trình tự các sự việc
trong sách Việt sử lược như sau: Sau chiến thắng Chiêm Thành năm 1069 ngài Lý
Thường Kiệt được phong chức Thái uý và giúp việc đỡ việc chính sự. Những năm
1070 tình hình biên giới phía bắc trở nên căng thẳng, Lý triều đã nhận ra, nên
tháng 12/1070 sứ Đại Việt là Lý Kế Nguyên sang thăm dò. Bia chùa Linh Xứng viết:
“đức kim thượng Minh Hiếu hoàng đế lên ngôi, Thái uý lấy tư cách Y Doãn. Hoắc
Quang được nhà vua giao phó nhiếp chính và gửi gắm công việc xã tắc”. Rất có thể
mùa đông năm 1071 vua Lý Thánh Tông cảm thấy không khoẻ (trong khi tình hình biên
giới rất đáng bận tâm) nên đã trao quyền phụ chính cho Lý Thường Kiệt chứ chưa
hẳn Thường Kiệt đã tự ý vượt quyền (việc này giống với chuyện vua Hán Vũ Đế lâm
bệnh năm 87 Tcn, bèn phong cho Hoắc Quang làm Tư Mã đại tướng quân, phụ chính
giúp đỡ cho Hán Chiêu đế Lưu Phất Lăng). Khi nắm quyền phụ chính, ngoài biên cảnh
Lý Thường Kiệt tiếp tục công việc mà vua Lê Thánh Tông bỏ lại, ngài chỉnh đốn
quân sự, đề phòng chiến tranh xảy ra qua chi tiết “Nguyễn Nhật Thành làm Bộ
binh thị lang”. Vua Lý Nhân Tông lên ngôi, không thấy sách sử ghi chép việc
phong chức tước, vậy thì rất có thể cơ cấu triều đình vẫn như cũ, sử chỉ chép sự
kiện cất nhắc Nguyễn Nhật Thành làm chức Thị lang bộ Binh. Tại sao lại là bộ
Binh ? Vì chiến tranh có thể xảy ra bất cứ lúc nào ? Nhưng mà Lý Đạo Thành là
Thái sư năm 1054 và là quan văn ? Vì sao lại để ngài làm thị lang bộ Binh ? E rằng
Nguyễn Nhật Thành không phải là Thái sư Lý Đạo Thành! Sách Việt sử lược chép:
“Các cấp khác trở xuống, mỗi vị một chức vị sai biệt nhau”. Khi vua Lý Nhân Tông
lên ngôi năm 1072, nhân sự triều Lý có sự thay đổi như trường hợp của Nguỵ Trưng
xin nghỉ hưu. Nhưng chắc rằng sự thay đổi gây được sự quan tâm nhất là trường hợp
của Nguyễn Nhật Thành người được cất nhắc làm Bộ binh thị lang. Rõ ràng Lý Thường
Kiệt đã chuẩn bị cho chiến tranh, bằng chứng khác là năm 1075 ngài chủ động đem
quân tấn công 3 châu Ung Khâm Liêm nhà Tống. Sự việc Nguyễn Nhật Thành được làm
Thị lang bộ Binh vì gây được sự chú ý nên sách Việt sử lược đã chép lại, rất có
thể tác giả của sách Việt sử lược đã nhìn nhận sự kiện Nguyễn Nhật Thành được
giữ chức Bộ binh thị lang là việc Thăng Long chuẩn bị cho chiến tranh, nên đã
chép các sự kiện khác có liên quan đến công tác chuẩn bị cho chiến tranh vào cùng
sự kiện Nhật Thành nhận chức Thị lang bộ binh. Vì thế mà sự kiện Lý Thường Kiệt
được phong chức Thái uy giữa niên hiệu Thần Vũ cũng được chép gộp vào năm 1072,
cùng với sự kiện Nhật Thành nhận chức Bộ binh thị lang [Quan chế triều Lý cho
chúng ta biết rằng chức Bộ thị lang chỉ là người giúp việc cho Thượng thư. Chức
Thượng thư là người đứng đầu 1 Bộ. Có 6 Bộ cả thẩy là: Hộ, Lễ, Lại, Binh, Hình,
Công. Xem như vậy thì việc cân nhắc Nguyễn Nhật Thành không có gì trọng đại mà
sử phải ghi lại. Có phải như thế ? Vì là Lý Thường Kiệt giữ chức Thái uý, nên
ngờ rằng ngài nắm giữ quyền của chức Thượng thư bộ Binh. Do đó người nào sẽ nắm
giữ chức Bộ thị lang lại vô tình trở nên trọng đại] Trong nội chính Lý Thường
Kiệt rất quan tâm tới các lão thần qua sự kiện Nguỵ Trưng xin nghỉ được ban ghế
tựa và gậy chống. Chúng ta chưa có bằng chứng chính xác xem sự kiện hậu đãi các
lão thần chép trong sách Toàn thư chính xác hay trong sách Việt sử lược chính xác.
Lý Thường Kiệt nắm quyền phụ chính như vậy ? Nhưng rồi ngài có liên quan tới việc
bức tử Thượng Dương thái hậu không ?
Sách Lý Thường Kiệt: Lịch sử ngoại
giao và tông giáo triều Lý viết: “Tiết lại bàn nên dụ Lưu Kỷ và Thân Cảnh-Phúc.
Tiết nói: “Vì mưu của Lý Thường-Kiệt (TB chép Thượng-Cát) và Lý Kế-Nguyên, nên
Giao-chỉ đã làm loạn. Càn-Đức (Lý Nhân-tông) và mẹ (Ỷ-lan) oán hai người ấy và
nay lại tin vào Nguyễn Thù. Thù vốn có lòng quy-thuận. Vả Lưu Kỷ ở
Quảng-nguyên, Thân Cảnh-Phúc giữ động Giáp, đều cầm cường-binh. Ta có viên
Thành Trạc, làm giáp-áp ở trại Hoành-sơn, vốn quen thân với Thù và Cảnh-Phúc.
Tôi muốn sai Trạc mang sắc-bằng vào chiêu-nạp chúng”. Quì không nghe mưu ấy (TB
279/11a).
* Mộng khê bút đàm của Thẩm Quát chép rất rõ Lý Thường Kiệt
và Ỷ Lan nắm chính sự. Thế nhưng trong lời bàn của Phó tướng cuộc nam chinh Triệu
Tiết chép cũng rất rõ. Lý Thường Kiệt và Lý Kế Nguyên đứng đầu chủ mưu làm phản,
còn Ỷ Lan và Nguyễn Thù thì có lòng quy thuận nên oán (chống lại) Lý Thường Kiệt.
Sách Lĩnh ngoại đại đáp chép: "Lúc Càn Đức mới
lập, quyền nằm trong tay bề tôi, đại thần là Lý Thượng Cát 李上吉 đứng
đầu bàn chuyện làm phản [nhà Tống]" [dẫn theo Phạm Lê Huy]
* Theo sách Lĩnh ngoại đại đáp thì Lý Thường Kiệt là đại thần
và đứng đầu việc bàn làm phản, không thấy nhắc tới Ỷ Lan. Nên rất có thể lời bàn
của Triệu Tiết là chính xác. Ỷ Lan phản đối chính sách cứng rắn của Lý Thường
Kiệt. Sự việc này cho thấy mỗi quan hệ giữa Lý Thường Kiệt và Ỷ Lan không hẳn đã
tốt đẹp. Sự kiện Đại Việt tấn công 3 châu của nhà Tống năm 1075 cho thấy Lý Thường
Kiệt thực sự nắm chính sự còn Nguyên phi Ỷ Lan không có nhiều vai trò. Nhưng sách
Mộng khê bút đàm chép rằng cả Thường Kiệt và Ỷ Lan chủ trì quốc sự. E rằng Thẩm
Quát đã chép gộp. Bà Ỷ Lan giữ vai trò rất quan trọng trong triều đình nhưng là
sau khi Thường Kiệt vào trông coi Ái châu khoảng năm 1082.
Sách Lý Thường Kiệt: Lịch sử ngoại giao và tông giáo triều Lý
viết: “Bia BA chép rõ-ràng hơn. Bia ấy nói: “Năm Nhâm-tuất, Hoàng-đế đặc-gia
một quân ở trấn Thanh-hóa, ban cho ông làm phong-ấp” (...) Vậy thì chắc rằng
trong năm Nhâm-tuất, ông ra đóng ở trấn Thanh-hóa. Có lẽ vào cuối năm ấy”.
* Có lẽ Thẩm Quát đã thu thập được những thông tin chép đến
vai trò của Ỷ Lan nên đã chép gộp trong Mộng khê bút đàm. Chứ kỳ thực giai đoạn
Lý Thường Kiệt ở Thăng Long bà Ỷ Lan không có thực quyền, đúng như lời bàn của
Triệu Tiết.
Sách Lý Thường Kiệt: Lịch sử ngoại giao và tông giáo triều Lý
viết: “Tên Nguyễn Thù, ở sử ta (TT và VSL) cũng không thấy. Nhưng TT có chép:
“Năm 1042, mất mùa, vua Lý Thái-tông sai quan khu-mật Nguyễn Châu đem những
người phiêu-lưu đắp ụ đất ở các địa-phương, trên có đựng thẻ gỗ đề tên đất, để
người đi tha-hương kiếm ăn dễ nhận đường”. Chữ Châu là ngọc châu rất gần chữ
Thù là khác, có lẽ hai tên ấy là một chăng ? Từ năm 1042 đến năm 1076 có 34
năm; giả thuyết trên cũng không vô-lý”.
* Nếu đúng Nguyễn Châu là Nguyễn Thù, thì rõ Nguyễn Thù là lão
thần 3 triều. Nhưng vì lẽ gì mà bà Nguyên phi lại tin Nguyễn Thù mà không phải
là Lý Thường Kiệt như lời bàn của Triệu Tiết được chép lại trong sách Tục tư trị
thông giám trường biên. Theo như lời bàn chúng ta có thể đoán định sự tin ấy diễn
ra trước khi quân Tống nam chinh. Nguyễn Thù có tham gia cuộc tranh đoạt quyền
vị giữa Thượng Dương thái hậu và Ỷ Lan thái phi hay không ? Có khi nào kịch bản
là Nguyễn Thù đã giúp đỡ bà Nguyên phi do đó mà có sự tin tưởng của Ỷ Lan thái
phi dành cho Nguyễn Thù ? Nhưng có sự lạ rằng: cuộc tranh giành quyền vị thực sự
diễn ra như thế nào và ai là người giành phần thắng vì như chúng ta đã thấy trước
khi Lý Thường Kiệt vào coi Ái châu năm 1082, bà Nguyên phi Ỷ Lan không có thực
quyền ? Thêm nữa xét sách Mộng khê bút đàm và Quế hải ngu hành chí sẽ nhận ra Ỷ
Loan Lê thị là Thái phi 太 妃 chứ không phải được tôn làm Thái hậu năm 1073 như sách
Việt sử lược và sách Toàn thư chép. Có khi nào sách sử phương nam đã dùng hiệu
sau để thế vào hiệu trước không ? Khả năng rất cao là trước khi quân Tống nam
chinh bà Ỷ Lan vẫn là Thái phi. Vậy nếu bà Thượng Dương thái hậu bị bức tử năm
1072 thì trong nhiều năm không tồn tại Thái hậu sao ? Hay bà Thượng Dương chưa
chết ?
2. Sách
Việt sử lược chép: “Năm Giáp Dần [1074] Xuất phát các đạo binh gồm 10 vạn người,
chia làm 2 đạo: Sai Nguyễn Thường Kiệt lãnh đạo thuỷ quân xuất phát từ Vĩnh Yên
tiến đến Khâm Châu, Liêm Châu. Tôn Đản lãnh đạo lục quan xuất phát từ Vĩnh Bình
tiến đánh Châu Ung (…) Năm Bính Thìn [1076] Tháng 7 (…) Quân hai bên cầm cự
nhau hơn một tháng, Thường Kiệt biết sức quân Tống đã mệt mỏi, nên ban đêm qua
sống đánh lén một trận, phá hại dữ dội, lính nhà Tống chến đến quá nửa, bèn rút
lui về giữ châu Quảng Nguyên (…) Tháng chạp cho quan nội cấp sự là Lê Văn Thịnh
làm Binh bộ thị lang”.
Sách Toàn thư chép: “Ất Mão [1075] Mùa xuân tháng 2 xuống
chiếu tuyển Minh kinh bác học và thi Nho học tam trường. Lê Văn Thịnh trúng tuyển,
cho vào hầu vua học (…) Sai Lý Thường Kiệt, Tông Đản đem hơn 10 vạn binh đi đánh.
Quân thuỷ, quân bộ đều tiến. Thường Kiệt đánh các châu Khâm, Liêm; Đản vây châu
Ung”.
* Sách Toàn thư chép Lê Văn Thịnh trúng tuyển Minh kinh bác
học và rằng ngài là Trạng Nguyên đầu tiên của lịch sử khoa bảng Việt Nam. Nhưng
sách Toàn thư chép có đúng không ? Vì không thấy sách Việt sử lược chép ? Có thể
Việt sử lược chép thiếu chăng ? Trong bài Bàn về nhân vật Tông Đản tôi có đặt
giả thuyết Lưu Kỷ châu Quảng Nguyên chính là Tông Đản. Sách Việt sử lược chép:
“Năm Giáp Ngọ [1054] Dùng Lưu Khánh làm Tả thanh đạo. Vương Hành làm Hữu thanh đạo”.
Không rõ nhân vật Lưu Khánh năm 1054 có liên hệ gì với nhân vật Lưu Kỷ không ? Lưu
Kỷ thì chắc là thổ tướng vùng biên viễn rồi. Nhưng chuyện các thổ tướng vùng biên
viễn được phong các chức tước quan trọng không phải là hiếm. Nhưng cũng chẳng có
cớ gì để khẳng định Lưu Kỷ là Lưu Khánh hay Lưu Kỷ có mối quan hệ thân tộc với
Lưu Khánh. Sự việc này sẽ xét sau vậy.
Sách Lý Thường Kiệt: Lịch sử ngoại
giao và tông giáo triều Lý chép: “Sau khi quân ta thất-trận ở Kháo-túc, mất hai
hoàng-tử, Lý Thường-Kiệt nghĩ đến kế hoãn-binh. Vả ta biết rằng quân Tống cũng
mỏi-mệt lắm rồi. Hễ chúng rút quân về, thì quân ta lại khôi-phục dễ-dàng những
châu đương bị chiếm. Vì vậy, Thường-Kiệt bèn “ dùng biện-sĩ để bàn hòa. Không
nhọc tướng-tá, khỏi tốn máu-mủ, mà bảo-an được tông-miếu” (LX). Ông sai sứ tới
doanh Quách Quì nói: “Xin hạ chiếu rút đại-binh về, thì sẽ lập-tức sai sứ sang
tạ tội và tu-cống”. Ông lại bằng lòng nhượng đất cho Tống. Sứ-giả là viên văn
tư-sứ Kiều Văn-Ứng nhận với Quách Quì rằng: “Chỗ nào quân Tống đã chiếm tức là
đất Tống” (TB 349/7a). Ông lại bào-chữa cho vua Lý, đổ lỗi việc đánh Ung-châu cho
người Tống là Từ Bá-Tường đã xui-giục (VII/1). Về mặt Tống, lương-thảo rất
thiếu-thốn (X/6). Từ khi đại-quân vào đất ta, phu khuân-vác lương-thảo không đủ
số. Ngày 17 tháng 12 (K. Ho, DL 14-1-1077, TB 279/17a) viên chuyển-vận phó-sứ
Quảng-tây Miêu Thì-Trung phải tâu việc ấy về triều. Vua Tống hạ-chiếu nói: “Vì
số phu không đủ, cho nên binh phải dừng lại lâu như thế. Vậy phải bắt phu cho
đủ. Nếu bắt không đủ bảy phần mười thì châu-quan phải phạt một phần và
huyện-quan phải phạt hai phần”. Về sau, khi kê công-tội trong việc nam-chinh,
Triệu Tiết bị khiển-trách vì để thiếu lương (chiếu 18 năm Đinh-tị, M. Dn, DL
21-8-1077, TB 283/16b). Chính Thúc kể chuyện thiếu lương, phải thở ra câu này:
“May có lời giặc xin qui-thuận, không thì làm thế nào ?” (NTDT) (...) Sách VSL
có chép tên Kiều Văn-Tư, nói y được cất làm chức thượng-lâm quốc-sĩ-sư vào năm
1100. Không biết có phải là Kiều Văn-Ưng làm chức Văn-tư-sứ mà sách VSL chép
lầm hay không”.
* Tháng 11/1075 Lý Thường Kiệt thống
lãnh thuỷ chiến tấn công châu Khâm và châu Liêm. Lưu Kỷ thống lĩnh lục quân tấn
công các trại biên giới nhà Tống rồi tiến vây thành Ung Châu. Sau khi hạ 2 thành
Khâm Liêm, Thường Kiệt chia 2 đạo, đạo quân chính tiến về Ung châu, đạo quân phụ
phục kích quân cứu viện tại Côn Lôn. Quân Lý tấn công thành Ung Châu khoảng 40
ngày thì hạ được, bèn rút quân. Tháng 2/1076 Tống Thần Tông ban chiếu đánh Đại
Việt, đồng thời liên kết với Chiêm Thành tấn công Thăng Long từ hai đầu, phía
nam bắc. Đầu năm 1077 quân Tống chia 2 đạo tấn công Đại Việt. Đạo bộ binh do Quách
Quỳ thống lĩnh, Triệu Tiết làm phó tướng. Đạo thuỷ binh do Dương Tiến Tùng chỉ
huy xuất phát từ Châu Lôi. Quân Lý cũng chia 2 đạo để phòng thủ. Đạo phòng thủ
trên đất liền do Lý Thường Kiệt chỉ huy, đạo phòng bị trên biển do Lý Kế Nguyên
thống lãnh. Ngoài đạo quân của triều đình, nhà Lý còn được sự giúp sức của các
thủ lĩnh vùng biên viễn mà đứng đầu là Lưu Kỷ.
* Tường Tống là Nhâm Khỉ đánh úp lấy
được trại Ngọc Sơn, rồi tiến về Vĩnh An. Tháng 1/1077 tướng Tống là Yên Đạt
giao chiến với Lưu Kỷ tại Quảng Nguyên, Kỷ hàng và bị đưa về kinh sư. Tướng Tống
là Khúc Chẩn từ Quảng Nguyên đánh Môn Châu, thủ lĩnh Hoàng Kim Mã, Sầm Khánh Tân
thông hàng. Quách Quì sai quân tiến tời huyện Quang Lang, thủ lĩnh Thân Cảnh Phúc
chống ở Quyết Lý, bị thua nên rút vào rừng đánh du kích. Tháng 1/1077 quân của
Quách Quì tiến tới sông Phú Lương. Lý Thường Kiệt và vương hầu Hoằng Chân chống
giữ rất dữ dội. Quách Quì tấn công không lợi, bèn rút, quân Lý truy kích bị trúng
kế, vương hầu Hoằng Chân thiệt mạng. Lúc này thuỷ quân do Dương Tiến Tùng thống
lãnh giao chiến với Lý Kế Nguyên cũng không lợi. Tống Việt giữ thế giằng co khoảng
40 ngày nên có chuyện bàn hoà. Khoảng đầu tháng 2/1077 quân Tống rút lui.
* Sử phương bắc thì chép rằng: Thăng
Long sai sứ là Kiều Văn Ứng sang tạ tội và tu cống xin Quách Quì rút quân, đồng
thời bào chữa cho việc quân Lý tấn công Ung Châu là do Từ Bá Tường xúi. Nhưng sách
Việt sử lược chép Lý Thường Kiệt nhân đêm đến, đem quân tấn công đại binh của Tống,
nên Quách Quì buộc phải rút về giữ Quảng Châu. Vậy sách nào chép đúng. E rằng sách
sử phương bắc chép sai. Quách Quì tấn công tới 40 ngày nhưng không hạ được phòng
tuyến Như Nguyệt. Cuộc nam chinh lần này có ý nghĩa rất lớn đối với Thiên triều
nên mục đích cao nhất của nó là chiến thắng trước phương nam. Mục đích chưa đạt
được mà Quỳ rút quân là không hợp lý. Lại thêm vấn đề cốt tử trong chiến trận với
phương nam là lương thực.
Sách Lý Thường Kiệt: Lịch sử ngoại
giao và tông giáo triều Lý viết: “Bấy giờ đã cuối tháng giêng năm Đinh-tị. Mùa
nóng gần tới. Các tướng Tống đều thoái-chí, cùng bàn rằng: “Lưong ăn của chín
đạo quân ta đã cạn. Lúc ra đi, quân có 10 vạn, phu có 20 vạn. Vì nóng-nực và
lam-chướng, quân phu đã chết mất quá nửa rồi. Còn non nửa, cũng đều ốm”. Quách
Quì kết-luận rằng: “Ta không đạp đổ được sào-huyệt giặc, bắt được Càn-đức, để
báo mệnh Triều-đình; đó là bởi Trời ! Thôi ta đành liều một thân ta, chịu tội
với Triều-đình, để mong cứu hơn 10 vạn nhân-mạng” (TB 279/22b). Quì bèn
quyết-định nhận lời sứ ta, mà lui quân. Quì cho người mang biểu của vua Lý về
triều Tống, và hẹn với sứ ta tới đó nhận trả lời (TB 279/22b). Quách Quì đã
định ngày rút quân. Nhưng sợ quân ta theo đánh, cho nên không ban bố cho mọi
người biết trước. Đang đêm, Quì cho lệnh rút lui lập-tức. Các bộ-binh và
kị-binh không kịp sắp thứ-tự, hoảng-hốt đạp xéo nhau mà đi. Tống-sử (TS 334)
chép việc nầy, kể thêm rằng: “Quân Giao-chỉ đóng bên kia sông, rình thấy như
vậy ; nhưng biết rằng tướng Đào Bật cầm hậu-quân đi sau, cho nên không giám đuổi
theo”. Đào Bật là một tướng văn võ kiêm toàn. Từ khi đánh Quảng-nguyên đến khi
quân tới Phú-lương, Quì đã sai Bật cầm quân giữ mặt hậu”.
* Rõ ràng mục đích của phương bắc là đánh
vào sào huyệt, bắt Càn Đức. Nhưng Quì lại không vượt được sông Như Nguyệt. Bản
thân các tướng nhà Tống cũng phải thừa nhận việc thiệt hại quân số là rất lớn.
Vấn đề lương thực và lam khí là bức bách. Trong tình thế ấy, Lý Thường Kiệt không
xin lui đại binh thì Quách Quì có lui không ? Lý Thường Kiệt thực rất giỏi cầm
binh, vậy ngài có biết tình thế của quân Tống không ? Nếu biết sao ngài còn phải
xin hoà. Thậm chí còn chấp nhận 1 điều kiện rất khó hiểu, ấy là: “Chỗ nào quân
Tống đã chiếm tức là đất Tống”. Dẫu bia Linh Xứng có chép: “dùng biện sĩ để bàn
hoà, không nhọc tướng tá, không tốn máu mủ, mà bảo toàn được tông miếu”. Song rõ
ràng là tình hình chiến sự rất có lợi cho quân Lý. Thì rất là khó hiểu khi Thường
Kiệt lại xuống nước đến vậy ?
Sách Lý Thường Kiệt: Lịch sử ngoại giao và tông giáo
Triều Lý viết: “Hạ-tuần tháng 2, được tin Quách Quì nhận lời đình-chiến với Lý,
đã lui quân, và thôi không tìm cách vượt bốn năm chục dặm cuối-cùng để hạ
Thăng-long nữa. Tuy nhận được biểu của vua Lý khiêm-tốn xin nhận lỗi, chịu
nhường đất và trở lại tu-cống như xưa, nhưng Tống Thần-tông lấy làm bất-mãn.
Vua liền muốn sai quân tiếp-viện xuống để gắng qua sông. Có viên giám-sát
ngự-sử Thái Thừa-Hi dâng sớ can ngăn (VKT) (…) Ngày 25 tháng 2 năm Đinh-tị, Ngô
Sung thay mặt quần-thần dâng biểu mừng vua Tống “đã dẹp yên An-nam, và đã lấy
lại được Quảng-nguyên” (B. Ng, DL 22-3-1077, TB 280/16a, còn TS 6 chép lầm ra
tháng ba) (…) Cũng ngày ấy, có chiếu đổi châu Quảng-nguyên ra Thuận-châu và
thăng châu Quang-lang lên hàng huyện, bãi bỏ ti An-nam-đạo kinh-lược chiêu-thảo
đô-tổng-quản và ti an-phủ, và giải-tán hành-doanh (TB 280/16a) (…) Vua Tống
liền trả lời cho vua Lý Nhân-tông, bảo phải tu-cống như trước và phải trả lại
dân-đinh mà quân Lý đã bắt ở Khâm, Liêm và Ung (TB 280/16a) (…) Sau, vua Tống
xét rõ công tội các tướng cầm quân. Tội chính về Quách Quì, vì đã trì-hoãn
không chịu tiến binh. Quì bị đổi đi Ngạc-châu, rồi giáng làm tả-vệ tướng quân
và an-trí ở Tây-kinh (27-7, A. Ho, DL 18-8-1077) (...) Tội thứ hai là đã không
biện đủ lương-thảo cho quân-mã dùng. Những người có trách nhiệm về lương-thảo
như bọn Lý Bình-Nhất, Thái Dục và Chu Ốc đều bị biếm (1-8, M. Dn, 21-8-1077, TB
284/1a) (...) Còn Triệu Tiết lại được khỏi tội; vì có ngự-sử Thái Xác bênh-vực
(TB 283/16b). Nhưng 5 năm sau (1082) khi bị đổi lên lộ Phu-Diên, Tiết tỏ vẻ không
bằng lòng; vua Tống mắng rằng: “Triệu Tiết trước đây đi đánh An-nam bị thua, đã
được tha không bị tội chết. Nay còn ý oán. Nếu không trừng-trị thì ai sợ lệnh
trên nữa” (TB 326/19a). Cho đến Dương Tùng-Tiên thống-lĩnh thủy-quân, lúc mới
về, cũng bị tội, nhưng sau được ân-xá (TB 288/6a) (…) Từ Bá-Tường phải tự thắt
cổ (năm 1078, TB 288/7a). Triệu Tú trước bày cho ta phép hỏa-công, bị phát-phối
đi Hồ-bắc (năm 1077, TB 281/13b) (...) Muốn tỏ lòng khoan-hồng, vua Tống lại
theo lời Quách Quì xin, thu-dụng tả-lang-tướng Nguyễn Căn đã bị bắt ở sông
Kháo-túc, và bổ làm hạ-ban điện-thị (1-6, TB 283/1a). Tuy vậy, vua Tống vẫn
nghĩ đến tương-lai. Ngày 14 tháng 9 năm Mậu-ngọ 1078, có La Xương-Hạo từ
Chiêm-thành về tới nơi, dâng các bản-đồ vẽ đường đi từ Chiêm đến Giao-chỉ. Tống
Thần-tông phê thưởng cho Xương-Hạo và nói thêm rằng: “Từ khi dụng binh ở
An-nam, kẻ hiến kế đánh giặc kể có hàng trăm. Lời bàn về đường thủy, đường bộ
để tiến quân, thường không giống nhau. Chưa biết ai phải. Nên chép các thuyết
thành từng loại, về mỗi loại, vẽ đồ phụ vào, để sẵn-sàng cho việc dụng-binh
ngày sau” (TB 292/6a). Nhưng sau đó, Thần-tông chán-nản về việc chiến-tranh và
không muốn động đến nước ta nữa. Lý Thường-Kiệt thì trái lại, dùng vũ lực chiếm
lại một phần đất mất và đe-dọa Quảng-nguyên”.
* Quách Quì dẫn đại quân đi nam chinh, mục đích thì đã rõ là
bắt Càn Đức để trị tội. Nhưng mà không được. Khi Thường Kiệt xin rút đại quân. Hẳn
Quỳ phải tấu báo với triều đình, xin chỉ thị của vua. Nhưng rõ là Quỳ đã tự ý rút
lui, ngửa mặt mà than: không thắng Giao Chỉ là ý trời, đành một mình chịu tội,
không để thiệt hại 10 vạn nhân mạng. Quách Quỳ đã tự ý lui binh. Xét tình hình
thì thực Quỳ buộc phải lui quân, trong khi vua Tống vẫn mộng thôn tính phương
nam.
Sách Lý Thường Kiệt: Lịch sử ngoại giao và tông giáo triều Lý
viết: “Sau khi quân Quách Quì rút lui khỏi Lạng-châu, quân Lý liền theo sau và
đóng giữ ở động Giáp. Rồi kéo vào đánh úp, chiếm lại Quang-lang (TB 283/15a).
Các viên tri-huyện Hồ Thanh và tuần-phòng Trần Tung đều bỏ chạy (TB 287/1b). Thế
mà viên coi trại Vĩnh-bình không biết. Tháng 7 (Đ.Ti 1077) ti chuyển-vận mới
tâu về triều, nói: “Có dò được tin quân Giao-chỉ hiện đóng ở ngoài huyện
Quang-lang”. Vua Tống không hài lòng, hạ chiếu: “Huyện Quang-lang đã bị quân
Giao-chỉ đánh úp và chiếm. Chưa thấy lộ Quảng-tây xử-trí làm sao. Từ đó qua ải
Quyết-lý đến Thuận-châu không xa. Coi khéo lại không thể cố-thủ được. Phải làm
sao cho không tổn quốc-uy, sao cho binh-lực và tài-phí không càng ngày càng hao-tổn.
Vậy giao cho Triệu Tiết, Lý Bình-Nhất, Miêu Thì-Trung cùng nhau bàn mưu-kế cho
đúng lợi hại. Chớ có lần-lữa tránh việc, đến nỗi hỏng đại-sự của Triều-đình ở
một phương. Bàn-định xong, rồi sẽ gấp tự viết thư báo về tâu rõ” (TB 283/15a)
(…) Dùng vũ-lực khôi-phục đất mất sợ không xong, Lý lại chủ-trương ngoại-giao
mềm-giẻo và xin sai sứ tới bàn. Triệu Tiết tâu về, vua Tống bằng lòng và hạ
chiếu nói: “Giao-chỉ chịu theo ta rồi. Nếu nó có sai người tới bàn việc, hãy
cho tới Quế-châu” (1-5, TB. 282/1a).
* Đúng như nhận xét của viên quan nhà Tống: Người Giao Chỉ
gian xảo. Đầu tháng 2/1077 Càn Đức xin Quách Quỳ lui đại binh, sẽ lập tức sang
phương bắc tạ tội và tu cống, vậy mà khi Quách Quì vừa rút khỏi Lạng Châu, Giao
Chỉ đã đánh úp chiếm lại Quang Lang. Xem ra Lý Thường Kiệt không có chủ ý bàn
hoà ?
Sách Lý Thường Kiệt: Lịch sử ngoại giao và tông giáo triều Lý
viết: “Tháng 7 năm ấy (Đ.Ti 1077) triều đình Tống xét rõ công-trạng của các
tướng thuộc An-nam hành-doanh; Quách Quì bị an-trí ở Tây-kinh, còn Triệu Tiết
vẫn được lưu lại coi Quế-châu, sung chức an-phủ-sứ Quảng-tây, để đối-phó với
Lý. Tháng 10, sứ-bộ ta tới biên. Tiết tâu rằng: “Người Giao sai tụi Lý
Kế-Nguyên tới biên-giới cùng với quan ta bàn việc. Tôi muốn bảo quan ta lấy
ấn-tín triều-đình mà hiểu-dụ Càn-đức, ra lệnh cho y trả lại những nhân-khẩu đã
cướp, rồi triều-đình sẽ cấp đất cho”. Vua Tống bằng lòng (TB 285/4b). Nhưng
trong lời biểu của vua Lý, có dùng chữ húy của triều Tống. Triệu Tiết không
chịu nhận biểu và bảo sứ ta trở về chữa lại. Ngày 15 tháng 11, Tiết tâu: “Giao-chỉ
dâng biểu có phạm miếu-húy. Sứ-giả đã về rồi”. Vua Tống bảo cứ thu rồi tâu đệ
về triều (TB 285/17b).
* Xem ra người Giao Chỉ không muốn bàn hoà ? Lý Kế Nguyên chính
là tướng thuỷ quân theo Lý Thường Kiệt hạ châu Khâm, Liêm và chống cuộc tấn công
của Dương Tiến Tùng bằng thuỷ quân. Việc biểu của Kế Nguyên phạm huý Tống triều
có phải là vô tình hay trong mắt các tướng lĩnh Giao Chỉ, người Tống không có gì
đáng sợ, đánh hạ như chỗ không người ?
Sách Lý Thường Kiệt: Lịch sử ngoại giao và tông giáo triều Lý
viết: “Đầu năm sau (M. Ng 1078) vua Lý sai Đào Tông-Nguyên trở lại đi sứ. Tông-Nguyên
đem theo năm voi để cống và tờ biểu của vua Lý xin lại các đất Quảng-nguyên và
Quang-lang (TT chép vào tháng giêng nhuận, VSL chép vào tháng 2; còn TB chép
vào tháng giêng như TT). Lời biểu nói rằng: “Tôi đã nhận được chiếu-chỉ cho
phép theo lệ tới cống, y như lời tôi thỉnh-cầu. Chiếu lại đã sai quan thuộc ti
an-phủ định rõ cương-giới và dặn tôi không được xâm-phạm. Tôi đã vâng chỉ-dụ.
Nay sai người tới cống phương-vật. Tôi xin triều-đình trả lại các đất
Quảng-nguyên và Quang-lang” (9-1, A. Ma,
DL 25-1-1078; TB 287/1a). Vua Tống trả lời: “Hãy đợi sứ tới kinh, sẽ phân-xử về
cương-giới”. Tuy vậy, ti kinh-lược Quảng-tây có kẻ không muốn để sứ tiến kinh.
Ngày 22 tháng giêng nhuận, ti chuyển -vận tâu trằng: “Trước đây, sứ Giao-chỉ
đến, nhưng phải quay về, vì trong biểu có phạm húy. Nay sứ đã trở lại, và đã
chữa biểu. Nhưng viên câu-đương thuộc ti kinh-lược, là Dương Nguyên-Khanh, chưa
chịu thu nhận. Sợ chúng ngờ-vực là muốn ngăn chúng”. Vua Tống liền bảo tụi
Nguyên-Khanh: “Phải nhận và gửi biểu về, sai người đưa sứ tới kinh. Còn như
việc chúng đòi trả nhân-khẩu và sự định biên-giới, thì hãy đợi phân-xử riêng”
(TB 287/19a). Vua tôi Tống vẫn sợ ta có lòng phản-trắc. Triệu Tiết xin tăng
quân đóng ở Quế-châu cho được 5.000 (TB 285/8b). Ti chuyển-vận Quảng-tây xin
tăng lương-thực và tiền bạc (TB 287/20b). Quế-châu xin sai chúa trại Hoành-sơn
tới đạo Đặc-ma mua ngựa, và tới châu Ung, Khâm kiểm-điểm đân khê-động và sai
tập rèn vũ-nghệ (TB 286/5a). Vua Tống sai khuyến-khích dân Thái xứ
Cửu-đạo-bạch-y, vì chúng đã trình những việc thám-thính được ở nước ta (TB
285/18a) (…) Tháng 6, sứ-bộ qua lộ Kinh-hồ-bắc. Viên chuyển-vận sứ ở đó không
đủ phu hộ-tống, xin phép bỏ tiền thuê phu cho đắt (TB 290/1b). Ngày mồng 2
tháng 9, Đào Tông-Nguyên đã tới kinh, xin dâng cống-vật (TB 292/1b) (...) Tống-sử
còn chép lời chiếu trả lời cho Lý Nhân-tông như sau: “Trẫm vỗ-về vạn-quốc,
không kể xa gần. Nhưng Khanh phải trả các dân Khâm, Ung mà Khanh đã bắt đưa đi
xa làng-mạc chúng. Đợi khi nào Khanh đưa chúng trở về hết, Trẫm sẽ lập-tức lấy
các châu Quảng-nguyên ban cho Khanh” (TS 488). Đào Tông-Nguyên đệ lời vua Lý,
hẹn sẽ trả một nghìn quan-lại bắt ở ba châu Khâm, Liêm, Ung (TS 488). Tống
Thần-tông lại đặt ra một điều-kiện mới, là phải phạt những kẻ cầm-đầu gây việc
chiến-tranh. Sách TB (292/4a) chép rằng ngày 12 tháng 9, Tống Thần-tông hạ
chiếu nói: “Giao-chỉ quận-vương Lý Càn-Đức bằng lòng trả những người đã cướp ở
ba châu Ung, Khâm, Liêm, thì theo lời Khanh đã xin, lấy các châu Quảng-nguyên,
Tô-mậu và huyện Quang-lang trả lại cho. Nhưng phải đem các thủ-lĩnh đã gây loạn
đến biên-giới xử ?” (Q. Vi, DL 1-10-1078).
* Xem ra phương bắc không muốn làm căng, chỉ muốn an định việc
phương nam gấp. Sự kiện vua Tống đồng ý trả các châu Quảng Nguyên, Tô Mậu,
Quang Lang chứng tỏ rằng chưa hẳn Kiều Văn Ứng đã đồng ý điều kiện: đất nào quân
Tống chiếm được là của người Tống trong lần gặp Quách Quỳ năm 1077. Việc này được
củng cố thêm, qua những lần hội nghị Tống Việt để phân định ranh giới 2 nước, mà
phái đoàn Thăng Long do Lê Văn Thịnh làm trưởng. Sự kiện vua Tống đòi xử những
người đứng đầu cuộc phản loạn tại biên giới, đã không được Thăng Long đáp ứng.
Như thế rõ rằng năm 1078 Lý Thường Kiệt vẫn nắm quyền lực. Thái phi Ỷ Lan chưa
có thực quyền.
Sách Lý Thường Kiệt: Lịch sử ngoại giao và tông giáo triều Lý
viết: “Tống Thần-tông bấy giờ lo việc biên-thùy miền bắc hơn miền nam. Tháng 8
năm ấy (M. Ng 1078) đổi Triệu Tiết đi coi Thái-nguyên và bổ Tăng Bố thay. Nhưng
viện khu-mật xin lưu Tiết coi ti an-phủ, tuy rằng Bố đã đến Quế-châu (12-9, TB
292/4a). Trong khi ấy, nội-tình ở Quảng-nguyên, cũng như ở các biên-trại, vẫn
khó-khăn và bối-rối (…) Ung-châu bị tật-dịch, hỏa-tai luôn luôn. Người
đương-thời hay tin những điềm gở. Khi tấy một tượng Phật ở Ung-châu tự-nhiên
động, dân-gian lo-sợ; vì trước quân Lý vào đánh Ung-châu cũng đã có điềm ấy.
Vua Tống sai lập thủy-lục đạo-tràng để cầu phúc cho những oan-hồn tử-sĩ và giao
cho Tăng Bố bàn có nên dời thành Ung hay không (TB 392/7a). Mà điềm xấu không
phải ngoa. Các doanh-đồn, kho, trại ở Ung, Liêm, Vĩnh-bình, Thái-bình bị cháy.
Rất nhiều lương-thực, khí-giới bị thiêu-hủy (TB 293/9a). Phải chăng chỉ là sự
tình-cờ ? (…) Thấy Tống lần nữa không muốn trả Quảng-nguyên, Lý Thường-Kiệt xui
dân châu cướp phá. Ngày 21 tháng 4 năm Kỷ-mùi 1079, ti kinh-lược Quảng-tây tâu:
“Dân Man cướp Thuận-châu. Xin đưa quân dẹp” (...) Cầm đầu quân giải-phóng ấy có
Nùng Trí-Xuân coi động Cung-khuyết. Trí-Xuân có lẽ là dòng Trí-Cao, vốn đã theo
Tống và được ban chức nội-điện sùng-ban (...) Ma Thuận-Phúc coi động Vũ-lăng
(đất Bắc-cạn) và Hoàng Phu họp quân cùng Nùng Trí-Xuân, đánh Thuận-châu (TB
298/13a ; TB 300/6b chép Ma Trọng-Phúc) (....) Phê-bình chung về chánh-sách
Tống ở nam-thùy, đã có lời Ngụy Thái, em vợ Tăng Bố, trong sách Đông-hiên bút
lục. Thái viết: “Từ khi bọn Tiêu Chú đến kinh-lược Quảng-tây, hoặc nói dối-giá
để lừa trên dưới, hoặc không phòng-ngữ dân ngoài, để đến nỗi bốn đồn-trại bị
hãm. Quách Quì lại do-dự. Đến nỗi cũng không giữ nốt được Quảng-nguyên, cuối
cùng phải bỏ đi. Dân bị bắt, thì mười phần chỉ thả được có một. Thế mà
triều-đình tốn hàng vạn. Dân Lưỡng-Quảng từ đó phải khốn-đốn” (ĐHBL 8). Những
kẻ chỉ có óc trào-phúng, không nghĩ rằng Tống Thần-tông phải trả đất
Quảng-nguyên là không giữ nổi”.
* Xem ra cuộc chiến tranh Tống Việt không hoàn toàn giống như
sách sử phương bắc chép. Sách Đông hiên bút lục nhắc đến chi tiết “Quách Quì do
dự, đến nỗi không giữ nốt được Quảng Nguyên”. Hẳn là trong thế giằng co năm
1077, Lý Thường Kiệt cử sứ sang bàn hoà với Quách Quỳ, tuy nhiên việc bàn ấy chưa
hẳn đã như sử phương bắc chép. E rằng những lời ấy là do Quỳ bịa ra để gạt triều
đình mà thôi. Chứ tình hình từ khi Quỳ rút quân, tuyệt không thấy Thăng Long nhún
nhường. Việc bàn hoà trên thế thắng thực là 1 kế sách được sử dụng khá phổ biến
của các tướng lĩnh Việt Nam. Trước thì có Lê Hoàn, sau thì có Lê Lợi và mới gần
đây thôi trong chiến tranh Pháp Việt.
Sách Lý Thường Kiệt: Lịch sử ngoại giao và tông giáo triều Lý
viết: “Lý Thường-Kiệt là khôi-phục lại các đất mà Trí-Hội còn giữ. Thái-độ Lý
coi chừng đã găng. Ti an-phủ Quảng-tây đòi trả thêm các quan-lại và đàn bà bắt
ở ba châu Ung, Khâm, Liêm. Sứ ta trả lời không có nữa (TB 349/7a). Viên
chuyển-vận phó-sứ Quảng-tây, Ngô Tiềm, nói : “Gần đây, nghe nói Giao-chỉ nhiều
lần vào đòi dân Hữu-giang. Tôi đã cùng bàn chuyện với những người am-hiểu việc
Giao-chỉ và thử đoán ý chúng. Ai cũng đều nói rằng trong dăm ba năm nữa, chúng
sẽ tới cướp. Vậy xin huấn-luyện thổ-đinh ở Quảng-tây để phòng-bị” (22-6, TB
327/26a). Tin nầy và tin dân An-hóa ở Nghi-châu nổi loạn làm cho vua Tống lấy
làm lo. Tuy Hùng Bản đã có lệnh triệu về kinh, bấy giờ cũng phải trở lại coi
Quế-châu thay Trương Hiệt (8-7 năm N. Tu 1082, TB 328/4b). Ngô Tiềm lại xin đem
500 quân kỵ ở Thiểm-tây xuống đóng ở Quế-châu (2-8, TB 329/1b). Ngô Tiềm lo,
không phải là không đúng. Tháng 9 năm ấy [1082] Lý Thường-Kiệt sai châu-mục
châu Thượng-nguyên là Dương Thọ-Văn (vùng Bắc-cạn) đem quân đánh Nùng Trí-Hội ở
châu Qui-hóa và toan đánh vào châu Thuận-an (TB 349/7a). Nùng Trí-Hội thua chạy
vào Hữu-giang cầu cứu (346/4b). Hùng Bản tâu về triều nói: “Đời Gia-hữu, Nùng
Tông-Đán đem các động Vật-ác nộp, vua ban tên Thuận-an. Đời Trị-bình, Nùng
Trí-Hội đem động Vật-dương nộp, vua ban tên châu Qui-hóa. Nay các châu động họ
Nùng cai quản, vốn không phải thuộc xứ Nam-bình (Giao-chỉ). Mà các châu Qui-hóa
là đất chẹn cổ-họng của Hữu-giang; chế-ngự các đường quan-yếu đi Giao-chỉ,
Đại-lý, Cửu-đạo-bạch-y. Vậy xin hạ chiếu cho Giao-chỉ, hỏi vì sao đã xâm-phạm
châu Qui-hóa, và bảo trả lại tất cả các sinh-khẩu mà chúng đã cướp. Như thế mới
dứt được lòng ác của chúng, khi nó chưa sinh” (TB 349/7b) (…) Vua Lý được
chiếu, chắc lấy làm tức-giận. Nhưng không hề đổ lỗi cho Lê Văn-Thịnh đã vụng bàn.
Tháng 8 năm ấy (A. Su 1085) Văn-Thịnh được cất lên chức thái-sư, tức là đứng
đầu triều-đình. Trái lại, vua Lý tức Tống đã bất-chấp lời cố nài của mình. Cho
nên Lý lại muốn dùng binh lực quấy-nhiễu. Bấy giờ, có Nùng Thuận-Thanh coi động
Nhâm, bị cha con Lương Hiền-Trí chiếm đất. Thuận-Thanh đánh lại (TB 402/10b).
Viên coi châu Quảng-nguyên là Dương Cảnh-Thông, nhân đó thông với Thuận-Thanh.
Bèn sai bọn Đàm An đem quân vào đánh biên-dân ở Tống. Ngày mồng 2 tháng giêng
năm Bính-dần 1086, vua Tống hạ chiếu cho ti kinh-lược Quảng-tây bảo phải xét
việc ấy và gửi thư trách vua Lý “hỏi vì cớ gì mà không chịu theo chiếu sắc”.
(TB 364/1a)”.
* Việt sử lược chép rằng năm 1072 Lạng châu mục Dương Cảnh
Thông dâng hươu trắng. Khoảng năm 1085 Dương Cảnh Thông sai Đàm An đánh sang đất
Tống cướp biên dân. Rồi ủng hộ Nùng Thuận Thanh tranh đoạt quyền quản hạt. Sách
Cương mục chép: “Phú Lương thuộc tỉnh Thái Nguyên”. Năm 1072 Dương Cảnh Thông đã
trưởng thành, được phong chức Thái bảo, rất có thể cưới công chúa Thọ Dương
trong cùng năm. Rõ là Cảnh Thông thuận theo triều đình. Nhưng nếu Thượng Dương
thái hậu là thân tộc của Cảnh Thông bị bức hại năm 1073 thì liệu rằng họ Dương ở
Phú Lương còn thuận theo triều đình hay không ? Nếu giả sử như họ Dương bị triều
đình ép phải theo, thì vì sao không nhân lần nam chinh của Quách Quỳ mà quay mũi
giáo tấn công nhà Lý báo thù cho Thượng Dương thái hậu ? Mà lại trung thành với
Thăng Long. Khoảng năm 1085 còn tấn công biên giới nhà Tống, năm 1117 đương là
Phò mã dâng hươu trắng. Vậy rõ họ Dương vẫn trung thành với Thăng Long, mà không
ôm mỗi hận giết Thượng Dương thái hậu ? Có khi nào Thái hậu Thượng Dương không
bị bức tử cùng 72 cung nữ năm 1072 ? Thời điểm năm 1072 Thái uy Lý Thường Kiệt
nắm quyền tuyệt đối, chẳng ai có thể tranh với ngài ấy ? Ngay cả vương hầu Hoằng
Chân, Chiêu Văn có đội quân riêng cũng thuận theo. Rồi trong tình hình chuẩn bị
cho chiến tranh, đoàn kết các thế lực, củng cố sự ủng hộ của các lão thần, thì
chẳng có lý do gì để Lý Thường Kiệt bức hại Thượng Dương thái hậu, để rồi hậu
quả là giảm sự ủng hộ, thậm chí chống đối của họ Dương ở châu Phú Lương. Thực sự
ngài Lý Thường Kiệt đã chuẩn bị rất kỹ cho cuộc chiến tranh với Tống, sự việc
tha tù nhân ở Đô hộ phủ năm 1072 tuy rất nhỏ, song cũng chỉ ra điều này. Rất có
thể những tù nhân khoẻ mạnh đã được biên vào quân đội.
Sách Lý Thường Kiệt: Lịch sử ngoại giao và tông giáo triều Lý
viết: “Ngày 24 tháng 5 năm Bính-thìn 1076, vua Tống Thần-tông phàn nàn với
An-Thạch rằng: “Đời vua Chân-tông lúc Lê Hoàn chết, có thể lấy được Giao-chỉ;
thế mà bỏ mất cơ hội”. An-Thạch nói: “Khi Nùng Thiện-Mỹ nội-phụ (1074) Giao-chỉ
không giám cố-nài (VI/5). Bấy giờ Càn-Đức mới lên ngôi. Trong ngoài, dân chưa
theo. Trong nước ai cũng sợ Trung-quốc tới đánh. Nay có người buôn bán ở
Giao-chỉ, nhân theo giặc tới Ung, rồi trốn thoát. Đã gọi nó tới và hỏi rằng: “ngày
trước Giao-chỉ vào cướp có 6 vạn người, mà trong đó nhiều đàn bà, con gái, ông già,
kẻ ốm, có phải thế không ?”. Kẻ kia trả lời: “Nhà có sáu người thì năm người đi
theo quân, còn một người nữa không đi được, nên ở lại”. Xem vậy, cả nước
Giao-chỉ đã vào cướp. Trong nước chúng đã không còn ai. Ta bỏ mất cơ hội, thật
là đáng tiếc !” (K.Vi, DL 28-6-1076 ; TB 276/13b)”.
* Rõ là Lý Thường Kiệt đã chuẩn bị rất kỹ cho cuộc chiến với
Tống nên cuộc tấn công vào 3 châu Khâm Liêm Ung và trận phục kích tại Côn Lôn
thật hoàn hảo. Như vậy thật rất là khó hiểu khi mà Thường Kiệt bức tử Thượng Dương
thái hậu ?
Sách Lý Thường Kiệt: Lịch sử ngoại giao và tông giáo triều Lý
viết: “Vua bèn giam Thái-hậu và 72 thị nữ vào cung Thượng-dương (cung riêng của
Thái-hậu) rồi ép phải chết theo vua Lý Thánh-tông. (VSL chép 72 người, TT chép
76. Tục truyền cũng 72 và nói vì vậy, sau này Ỷ-Lan dựng 72 ngôi chùa để chuộc
tội) (...) Muốn gỡ tội ít nhiều cho Ỷ-lan, và có lẽ cho ông, ta nhận đời Lý còn
giữ tục bắt các cung nhân chết theo vua. Xem như sau khi Ỷ-lan mất (1117) có ba
thị nữ chết theo (TT và VSL) và sau khi vua Lý Nhân-tông mất (1127) cũng có
cung nữ lên đàn lửa để chết theo vua (TT)”.
Sách Toàn thư chép: “Ất Mùi. Hội Tường Đại Khánh năm thứ 6 [1115]
Mùa xuân tháng giêng, phong ba hoàng hậu là Lan Anh, Khâm Thiên, Chấn Bảo và 36
cung nhân. Bấy giờ vua không có con trai, cho nên lập nhiều hoàng hậu và cung
nhân, làm đàn chay để cầu tự. Thái hậu dựng chùa thờ phật, trước sau hơn trăm
chùa. Tục truyền rằng thái hậu hồi về việc Thượng Dương thái hậu và các thị nữ
vô tội mà bị chết, làm nhiều chùa phật để sám hối rửa oan”.
Bài Vì sao Lý Thường Kiệt trở thành hoạn quan của tác giả Đinh
Ngọc Thu viết: “Có thuyết cho rằng Lý Thường Kiệt bị hại bằng cách cho đánh
thuốc mê rồi hoạn ông trong đợt tuyển hoạn quan dưới thời vua Lý Thái Tông
và trong thời gian dài Lý Thường Kiệt không biết ai đứng đàng sau chuyện
này. Lập luận này có lý hơn khi nhìn lại những chuyện “thâm cung bí sử”
trong cung đình lúc bấy giờ (...) Dương Hồng Hạc là hoàng hậu, vợ vua Lý Thánh
Tông, sau này trở thành thái hậu Thượng Dương. Thái hậu Thượng Dương là
người mà chính sử ghi rằng đã bị hoàng thái hậu Linh Nhân, tức bà Ỷ Lan
chôn sống với 72 cung nữ sau khi vua Lý Thánh Tông băng hà. Mặc dù chính
sử ghi nguyên nhân của câu chuyện này không rõ ràng lắm nhưng các nguồn tư
liệu khác có nói việc chôn sống này là do thái hậu Thượng Dương cùng với
72 cung nữ là “tay chân” của bà và những người thân thuộc họ Dương đã làm
gian tế cho Tống, được nhà Tống sắp xếp cướp ngôi khi vua Lý Thánh Tông mất. Dương
Hồng Hạc là con của Dương Đức Uy và là cháu gọi hoàng hậu Thiên Cảm, vợ
vua Lý Thái Tông, bằng cô. Khi hoàng hậu Thiên Cảm được vua Lý Thái Tông
sủng ái, cha của bà là Dương Đức Thành được phong làm Tể Tướng. Từ đó thế
lực họ Dương được hình thành như: Dương Đạo Gia, Dương Đức Uy, Dương Đức
Thao, Dương Đức Huy, ba thế hệ lần lượt nắm giữ các chức vụ quan trọng
trong triều. Để tạo thêm thế lực cho họ Dương, hoàng hậu Thiên Cảm đã đem đứa
cháu gọi bằng cô ruột là Dương Hồng Hạc gả cho con chồng là thái tử Lý
Nhật Tôn để khi Nhật Tôn lên làm
vua thì Hồng Hạc trở thành hoàng hậu. Trước khi lấy Hồng Hạc, thái tử Nhật Tôn đã được cảnh giác về việc họ Dương lộng quyền có thể dẫn đến cướp ngôi vua như Vương Mãng cướp ngôi nhà Hán, vì vậy Nhật Tôn không muốn gần gũi với Hồng Hạc vì lo sợ nếu có con sẽ trúng kế họ Dương (...) Riêng về cuộc đời của Dương Hồng Hạc, sau khi thái tử Nhật Tôn lên ngôi tức vua Lý Thánh Tông, hoàng hậu Thiên Cảm lúc đó trở thành thái hậu và đã ép vua Lý Thánh Tông phong Hồng Hạc làm hoàng hậu, tức hoàng hậu Thượng Dương. Nhưng từ khi được tiến cung đến khi trở thành hoàng hậu cho tới khi vua Lý Thánh Tông mất, Dương Hồng Hạc hay hoàng hậu Thượng Dương sau này chưa một lần được vua “ban ân sủng”. Bà đã sống âm thầm lặng lẽ trong cung với mối hận nhà Lý không nguôi nên đã cùng với bác là Tể tướng Dương Đạo Gia và tay chân họ Dương âm mưu cướp ngôi nhà Lý khi vua Lý Thánh Tông mất. Vì vậy mới có câu chuyện thái hậu Thượng Dương cùng 72 cung nữ bị giam và bị chôn sống theo vua Lý Thánh Tông mà chúng ta đã biết qua sử sách (...) Các nguồn sử liệu Tống có ghi lại việc này như sau: vua Tống cho người sang Đại Việt với lời hứa sẽ phong cho Dương Đạo Gia làm Giao Chỉ Quận Vương nếu cướp được ngôi nhà Lý. Nhà Tống muốn Dương Đạo Gia tổ chức binh biến cướp ngôi với lời hứa nếu thất bại thì họ sẽ gửi quân Tống sang giúp. Họ Dương tin lời và đã tổ chức cướp ngôi ngay khi vua Lý Thánh Tông mất, đưa hoàng hậu Thượng Dương lên làm thái hậu, nắm quyền trong triều. Ỷ Lan là mẹ vua Lý Nhân Tông chỉ được làm thái phi mặc dù bà rất tài giỏi, trước đây đã làm nhiếp chính khi vua Lý Thánh Tông cầm quân đi đánh Chiêm Thành. Nhờ có sự giúp đỡ của Lý Thường Kiệt nên phe bà Ỷ Lan lật đổ được phe hoàng hậu Thượng Dương rồi lên nắm quyền nhiếp chính, bà Ỷ Lan được tôn lên làm hoàng thái hậu Linh Nhân. Sau khi thất bại, quân Tống đã không qua giúp họ Dương như lời hứa nên phe họ Dương đã bị diệt. Dương Đạo Gia: tức Dương Đức Minh. Ông giữ chức Tể tướng kế tiếp cha ông, Dương Đức Thành. Dương Đạo Gia là bác của Dương Hồng Hạc. Dương Đức Uy: tức Dương Đức Khai, là cha của Dương Hồng Hạc. Đức Uy giữ chức Tham tri bộ Lại, tương đương chức Thứ trưởng bộ Nội Vụ ngày nay. Dương Đức Thao: Anh trai của Dương Hồng Hạc. Dương Đức Huy: là con của Dương Đức Thao, cháu gọi Dương Hồng Hạc bằng cô”.
vua thì Hồng Hạc trở thành hoàng hậu. Trước khi lấy Hồng Hạc, thái tử Nhật Tôn đã được cảnh giác về việc họ Dương lộng quyền có thể dẫn đến cướp ngôi vua như Vương Mãng cướp ngôi nhà Hán, vì vậy Nhật Tôn không muốn gần gũi với Hồng Hạc vì lo sợ nếu có con sẽ trúng kế họ Dương (...) Riêng về cuộc đời của Dương Hồng Hạc, sau khi thái tử Nhật Tôn lên ngôi tức vua Lý Thánh Tông, hoàng hậu Thiên Cảm lúc đó trở thành thái hậu và đã ép vua Lý Thánh Tông phong Hồng Hạc làm hoàng hậu, tức hoàng hậu Thượng Dương. Nhưng từ khi được tiến cung đến khi trở thành hoàng hậu cho tới khi vua Lý Thánh Tông mất, Dương Hồng Hạc hay hoàng hậu Thượng Dương sau này chưa một lần được vua “ban ân sủng”. Bà đã sống âm thầm lặng lẽ trong cung với mối hận nhà Lý không nguôi nên đã cùng với bác là Tể tướng Dương Đạo Gia và tay chân họ Dương âm mưu cướp ngôi nhà Lý khi vua Lý Thánh Tông mất. Vì vậy mới có câu chuyện thái hậu Thượng Dương cùng 72 cung nữ bị giam và bị chôn sống theo vua Lý Thánh Tông mà chúng ta đã biết qua sử sách (...) Các nguồn sử liệu Tống có ghi lại việc này như sau: vua Tống cho người sang Đại Việt với lời hứa sẽ phong cho Dương Đạo Gia làm Giao Chỉ Quận Vương nếu cướp được ngôi nhà Lý. Nhà Tống muốn Dương Đạo Gia tổ chức binh biến cướp ngôi với lời hứa nếu thất bại thì họ sẽ gửi quân Tống sang giúp. Họ Dương tin lời và đã tổ chức cướp ngôi ngay khi vua Lý Thánh Tông mất, đưa hoàng hậu Thượng Dương lên làm thái hậu, nắm quyền trong triều. Ỷ Lan là mẹ vua Lý Nhân Tông chỉ được làm thái phi mặc dù bà rất tài giỏi, trước đây đã làm nhiếp chính khi vua Lý Thánh Tông cầm quân đi đánh Chiêm Thành. Nhờ có sự giúp đỡ của Lý Thường Kiệt nên phe bà Ỷ Lan lật đổ được phe hoàng hậu Thượng Dương rồi lên nắm quyền nhiếp chính, bà Ỷ Lan được tôn lên làm hoàng thái hậu Linh Nhân. Sau khi thất bại, quân Tống đã không qua giúp họ Dương như lời hứa nên phe họ Dương đã bị diệt. Dương Đạo Gia: tức Dương Đức Minh. Ông giữ chức Tể tướng kế tiếp cha ông, Dương Đức Thành. Dương Đạo Gia là bác của Dương Hồng Hạc. Dương Đức Uy: tức Dương Đức Khai, là cha của Dương Hồng Hạc. Đức Uy giữ chức Tham tri bộ Lại, tương đương chức Thứ trưởng bộ Nội Vụ ngày nay. Dương Đức Thao: Anh trai của Dương Hồng Hạc. Dương Đức Huy: là con của Dương Đức Thao, cháu gọi Dương Hồng Hạc bằng cô”.
Sách Toàn thư chép: “Ất Hợi [1035] Mùa thu tháng 7 lập người
thiếp yêu không rõ tên làm Thiên Cảm hoàng hậu”.
* Xét sách Việt sử lược và sách Toàn thư đoạn chép về việc Ỷ
Lan than khóc với vua Nhân Tông thì rõ là 2 sách này chép từ 1 nguồn tài liệu.
Mục năm 1115 của sách Toàn thư cho biết, theo tục truyền bà Nguyên phi Ỷ Lan dựng
nhiều chùa là do sám hối chuyện trước đây đã bức hại bà Thượng Dương và các
cung nữ. Nhưng không lẽ tục truyền lại ngắn vậy sao ? Rõ ràng là tục truyền biết
chuyện bà Nguyên phi Ỷ Lan bức hại bà Thượng Dương thái hậu và các cung nữ. Tôi
ngờ rằng tục truyền có kể về chuyện Thái hậu Thượng Dương bị bức tử và đồ rằng
câu: “mẹ già khó nhọc mới có ngày này, mà bây giờ phú quý người khác được hưởng,
thế thì sẽ để mẹ già vào đâu ?” được nguồn tài liệu của cả sách Toàn thư và Việt
sử lược (có thể là Việt chí của Trần Tấn) chép lại từ Tục truyền. Cũng cần lưu ý
rằng con số 72 cung nữ bị chôn cùng bà Thượng Dương mang ý nghĩa biểu tượng hơn
là con số chính xác. Thêm nữa, hiện tượng chôn người sống theo người chết trong
trường hợp của vua Lý Thánh Tông và sau này là Linh Nhân thái hậu thực rất bất
thường ? Có thể tác giả soạn sử đã cố gắng thêm hiện tượng chôn người sống theo
người chết để như lời kêu giảm nhẹ tội cho Thái hậu Ỷ Lan chăng ? Chúng ta thấy
Giáo sư Hoàng Xuân Hãn có viết “Tục truyền cùng 72 và nói vì vậy, sau này Ỷ Lan
dựng 72 ngôi chùa để chuộc tội”. Rõ là Giáo sư có biết đến Tục truyền mà nội
dung của tục truyền có viết Nguyên phi Ỷ Lan bức tử Thượng Dương thái hậu. Tôi
hiện không có tài liệu về Tục truyền này, để minh xác. Nhưng tôi cho rằng tồn tại
nguồn tài liệu mang tính chất Tục truyền về bà Nguyên phi Ỷ Lan. Cấu trúc của
nguồn tài liệu tục truyền này còn nằm trong những mảnh vụn được lưu lại trong sách
Toàn thư. Nội dung cơ bản gồm: tục truyền về cô gái hái dâu họ Lê gặp vua Lý Thánh
Tông được Toàn thư chép lại tại mục năm 1063; tục truyền về việc bà Nguyên phi Ỷ
Lan nhiếp chính khi vua Lý Thánh Tông đi đánh Chiêm Thành được Toàn thư chép lại
tại mục năm 1069; tục truyền về sự tranh giành quyền nhiếp chính giữa bà Thượng
Dương thái hậu và bà Nguyên phi Ỷ Lan được Toàn thư chép lại tại mục năm 1072
(về mốc tranh giành này tôi có đọc được nhiều dị bản, như việc bà Ỷ Lan giả vờ ốm,
sau buổi triều sớm, vua và quần thần tới thăm, thì bà đã khóc và than như 2 sách
sử có chép lại; dị bản khác thì nói bà Thượng Dương giả vờ có bầu, khi bà Ỷ Lan
sinh thì đã đánh tráo hoàng tử, thành ra bà Nguyên phi Ỷ Lan bị giam trong lãnh
cung 18 năm). Tôi cho rằng các sử gia biết về các tục truyền này, có thể ở thời
điểm của họ, các tục truyền không hẳn giống với chúng ta ngày nay, vì đã có 1
thời gian dài nó biến đổi, nó biến đổi như thế nào ? Ấy là việc nó tích hợp vào
trong nó những sự kiện, những mốc thời gian, những nhân vật có thực (tôi gọi nó
là thao tác lịch sử hoá truyền thuyết, thao tác này sẽ để lại những dấu vết của
thời đại trên các hoá thạch; chẳng hạn như trường hợp của vua Hùng, rõ ràng ngài
là đàn ông, vậy thì giới tính của ngài được xác định lại trong thời kỳ phụ hệ.
Qua đây tôi muốn bàn rộng hơn trong việc xác định tuổi của truyền thuyết, nói đúng
hơn là khi xác định những yếu tố mang tính thời đại chúng ta có thể lập được tiến
trình biến đổi của các truyền thuyết). Các sử gia đã lấy thông tin từ tục truyền
để chép bổ sung cho chính sử. Vì nguyên nhân nào đó mà trong mục năm 1072, sử
gia đã quên (hoặc cố ý không) dẫn nguồn từ tục truyền, thành ra khi xem sử chúng
ta cứ ngỡ đó là chính sử, mà không biết nó vốn là tục truyền. Nhưng như sách Toàn
thư, chúng ta đã thấy tác giả để lộ ra rằng nguồn tài liệu là lấy từ tục truyền,
qua sự kiện được chép tại mục năm 1115. Chúng ta có bàn đến sự kiện bà Ỷ Lan
than khóc với Nhân Tông và việc vua bức tử bà Thượng Dương và các cung nữ được
chép trong sách Việt sử lược và Toàn thư là cùng nguồn tài liệu, vậy thì cớ làm
sao mà có sự sai khác số lượng cung nữ bị giết ? Mà tục truyền rằng số lượng
cung nữ bị bức tử là 72 do vậy bà Ỷ Lan xây 72 ngôi chùa để sám hối, tục truyền
tức là dân gian! Sách Toàn thư cũng chép bà Ỷ Lan dựng hơn trăm ngôi chùa để sám
hối và sách chép rằng thông tin ấy có nguồn từ tục truyền, nhưng nguồn tục truyền
chép rất rõ là 72 ngôi chùa, vậy là có 2 nguồn tục truyền ư ? Hay là sách Toàn
thư cố ý khai man số lượng chùa so với nguyên bản của tục truyền. Có khi nào tục
truyền lấy thông tin từ chính sử ra để kiến tạo không ? Nhưng mà sách Việt sử
lược bị phong kín thời gian khá dài, nó gần như rất ít được tiếp xúc với dân
gian, vậy thì không có lý nào dân gian lại kiến tạo từ con số trong sách vắng mặt,
mà không phải là từ sách vẫn thường xuất hiện như Toàn thư. Câu chuyện hợp lý
nhất có thể là con số 72 vốn là của dân gian, để chính sử hoá tục truyền, sử
gia không chỉ bớt đi chỉ dẫn về nguồn tài liệu mà còn chép sai lệch thông tin để
có vẻ thật hơn.
* Tuy rằng lời chúc là của người soạn có tên Tào Lương Phụ
song Thứ sử châu Phú Lương tên Dương Cảnh Thông lại là người tổ chức đúc chuông.
Nên lời lẽ trong bài văn hẳn là phải được Cảnh Thông phê duyệt. Xem lời văn có đoạn
chúc Thánh Thiện hoàng thái hậu, đạo vượt Ốc Đăng, thọ hơn Phụ Bảo. Vậy rõ là Dương
Cảnh Thông không có mối hận gì với bà Thánh Thiện hoàng thái hậu. Trong Chú thích
thứ 92 của hai tác giả Phạm Lê Huy và Trần Quang Đức cho viết: “Thánh Thiện hoàng
thái hậu chỉ Linh Nhân Hoàng Thái hậu Ỷ Lan. Trong các nguồn sử liệu khác không
thấy chép về tên hiệu Thánh Thiện Hoàng thái hậu”. Tôi ngờ rằng Thánh Thiện không
phải là tên riêng, rất có thể là tính từ. Vì như trong lời chúc, cũng chỉ thấy
nhắc đến Đương kim hoàng đế chứ không thấy gọi tên hiệu. Nhưng dù Thánh Thiện có
là danh từ hay tính từ thì Hoàng thái hậu đã chỉ rõ, ấy là bà Linh Nhân Ỷ Lan.
Không có chút ấm ức, tư thù nào giữa Dương Cảnh Thông với Nguyên phi Ỷ Lan và
Thái uý Lý Thường Kiệt ?
Sách Toàn thư chép: “Đinh Dậu [năm
1117] Mùa thu tháng 7 ngày 25, Ỷ Lan hoàng thái hậu băng, hoả táng, bắt 3 người
hầu gái chôn theo. Tôn dâng tên thuỵ là Phù Thánh Linh Nhân Hoàng Thái Hậu. Sử
thần Ngô Sĩ Liên nói: Hoả táng là lễ đạo Phật, chôn theo là tục nhà Tần, Nhân
Tông đều làm theo, hoặc giả vâng lời dặn lại của thái hậu chăng ? Mùa thu tháng
8, táng Linh Nhân hoàng thái hậu ở Thọ Lăng phủ Thiên Đức (…) Quý Mão [năm 1123]
Tháng 3 ngày Tân Tỵ, mở hội khánh thành chùa Quảng Hiếu ở Tiên Du. Truy dâng lễ
cúng Thánh Tông và Thượng Dương hoàng thái hậu (...) Giáp Thìn [năm 1124] Mùa
hạ tháng 4, người nước Chân Lạp là Kim Đinh A Truyền cùng 4 người gia đồng sang
quy phụ. Thủ lĩnh châu Quảng Nguyên là Dương Tự Hưng dâng hươu trắng”.
* Nếu chỉ truy lễ cúng Thượng Dương
hoàng thái hậu thì chúng ta cần phải đặt mối nghi ngờ nhưng rõ sách sử chép
truy dâng lễ cúng Thánh Tông và Thượng Dương thì đây rõ là thể hiện sự kính trọng
của vua Lý Nhân Tông. Nhưng thật khó hiểu khi vua Lý Nhân Tông lại truy lễ cúng
người mà trước đây là đối thủ của mẹ đẻ mình. Bản dịch ra Hán Việt của sách Toàn
thư là “Truy tiến Thánh Tông cập Thượng Dương hoàng thái hậu”. Theo tôi nghĩa của
câu trong sách Toàn thư là: Nhớ lại những chuyện xưa về Thánh Tông, Thượng Dương
và/nên dâng lễ tại thái miếu. Như thế rõ rằng mối quan hệ giữa vua Lý Nhân Tông
và Thượng Dương hoàng thái hậu rất tốt đẹp.
Nên tôi đặt giả thuyết: Thượng Dương thái hậu không bị bức
tử năm Quý Sửu 1073, mà đồ rằng các sử gia đã chép Tục truyền làm chính sử.
Nay xem Thiền uyển tập anh, truyện Thiền sư Cứu Chỉ chép: "người Phù Đàm, Châu Minh, họ Đàm (...) khoảng Long Thuỵ Thái Bình [1054-1058] tể tướng Dương Đạo Gia, đem chùa mình, mời sư về trụ trì, sư quyết từ không được, đành phải theo". Sách sử cho biết năm 1054 Thái tông mất, Thánh tông lên ngôi, vợ lớn của Thánh tông là vị phu nhân họ Dương. Xem như đó, sau khi Thánh tông lên ngôi đã phong cho cha vợ là Dương Đạo Gia làm tể tướng, giống hệt như trường hợp của Thái tông ngày trước. Thế mới thấy, mình khảo sót như thế nào :( mà có phải là không được cảnh báo đâu chứ, bài viết của Yên Tử cư sĩ cũng đã từng nhắc về nhân vật Dương Đạo Gia là cha của Thượng Dương thái hậu, vậy mà không chịu lần theo. Thật khảo thế này thì ẩu quá! Cố gắng bài sau vậy.
Trả lờiXóa