ÂU
LẠC VÀ KHỞI NGHĨA HAI BÀ
I
– KHỞI NGHĨA TÂY VU VƯƠNG
Một số sử gia xác quyết rằng: Tại
Giao Chỉ và Cửu Chân vào năm 111Tcn, xảy ra cuộc nổi dậy của nhân dân, chống lại
sự xâm lược của nhà Tây Hán, do thủ lĩnh Tây Vu lãnh đạo. Họ còn cho rằng: Tây
Vu Vương đã thiết lập được một thái ấp hay chính quyền tại Cổ Loa. Căn cứ để khẳng
định điều này là dựa vào câu: “Viên tả tướng của Âu Lạc cũ là Hoàng Đồng chém
Tây Vu Vương” được chép trong Sử ký cũng như Hán thư và câu: “Quận Giao Chỉ, có
chín vạn hai ngàn bốn trăm bốn chục hộ, bảy mươi tư vạn một ngàn hai trăm ba
mươi bảy khẩu. Có mười huyện: Liên Thổ; An Định; Câu Lậu; Mi Linh; Khúc
Dương; Bỉ Đái; Kê Từ; Tây Vu; Long Biên; Chu Diên” được chép trong Hán thư.
Thế nhưng khi xem xét lại thì chúng
ta thấy những nghi vấn sau:
1.
Sử ký chép: “Quân của Qua thuyền tướng quân – Hạ lệ tướng quân và quân của nước
Dạ Lang mà Trì Nghĩa Hầu đem đi chưa xuống đến nơi thì đã bình nước Nam Việt rồi.
Bèn đặt thành chín quận. Từ lúc quan Úy
tên là Đà làm vua về sau là năm đời được chín mươi ba năm thì mất nước”.
Như vậy là theo như Sử ký chép thì
chia nước Nam Việt thành chín quận nhưng không cho biết tên của chín quận này.
Trong khi đó:
Hán thư chép: “Mùa xuân năm Nguyên
Đỉnh thứ sáu (năm 111Tcn) nhà vua đến làng Tân Trung huyện Cấp, lấy được đầu của
Lữ Gia, do đó đặt ra huyện Hoạch Gia. Quân của Trì Nghĩa Hầu chưa kịp xuống đến
nơi, nhà vua bèn sai đánh người Di miền tây nam, dẹp được chúng. Rồi đặt nước
Việt thành các quận Nam Hải, Thương Ngô, Uất Lâm, Hợp Phố, Giao Chỉ, Cửu Chân,
Nhật Nam, Châu Nhai, Đam Nhĩ”.
Như vậy theo như Hán thư chép thì
nước Việt cũng được chia thành chín quận đồng thời còn cho biết tên của chín quận
ấy.
Trong khi đó Sử ký được Tư Mã Thiên
soạn từ năm 109Tcn đến năm 91Tcn còn Hán thư được Ban Cố soạn từ năm 58 đến năm
62. Như thế cho thấy 2 tác phẩm này cách nhau khoảng 150 năm. Một điều cần hết
sức lưu ý là: sự kiện nam chinh của Mã Viện kết thúc năm 43, đánh dấu việc thực
tế Giao Chỉ, Cửu Chân, Nhật Nam thuộc nhà Hán, diễn ra trước khi Hán thư được
soạn.
Như đã thấy Hán thư đã làm rõ hơn
tên của chín quận nhưng tên của chín quận mà Hán thư đã kể có phải là tên của
chín quận ở thời điểm năm 111Tcn? Tên của chín quận mà Tư Mã Thiên biết nhưng
không ghi trong Sử ký có trùng với tên của chín quận mà Ban Cố viết trong Hán
thư?
Hãy xem những bằng chứng sau đây để
thấy rõ:
Sử ký chép: “Năm thứ ba mươi ba
(năm 214Tcn) phát những kẻ từng trốn tránh, ở rể, nhà buôn đi cướp lấy đất Lục
Lương, đặt thành các quận Quế Lâm, Tượng, Nam Hải đem lính thú đến giữ”.
Hán thư chép: “Năm Nguyên Phượng thứ
năm (năm 76Tcn) mùa thu, bỏ quận Tượng, chia gộp vào các quận Uất Lâm, Tang
Kha”.
Như vậy là tới năm 76Tcn, sau khi
Tư Mã Thiên soạn xong Sử ký 16 năm, quận Tượng vẫn tồn tại trong khi chín quận
được Hán thư viết đến không có tên quận này. Điều này chứng tỏ: Tên chín quận
mà Hán thư đã kể không phải là tên chín quận ở thời điểm 111Tcn. Tuy nhiên điều
này chỉ cho phép chúng ta nghi ngờ thời điểm Giao Chỉ, Cửu Chân, Nhật Nam thuộc
Hán chứ không cho phép chúng ta khẳng định.
2.
Về sự kiện Hoàng Đồng chém Tây Vu Vương thì:
Trong
Sử ký phần Nam Việt Úy Đà liệt truyện không hề có bất cứ ghi chép nào về sự kiện
này tuy nhiên có ghi chép sự kiện Cư Ông dụ dân Âu Lạc, thật vậy Sử ký chép:
“Quan Giám quận Quế Lâm của nước Nam Việt tên là Cư Ông dụ người Âu Lạc theo
nhà Hán”. Trong khi đó:
Hán
thư chép: “Tương Thành Hầu làm chức Giám tên là Cư Ông trước làm chức Quế Lâm
Giám [quan giám sát quận Quế Lâm của nước Nam Việt ngày trước] nghe tin quân
Hán phá thành Phan Ngu, dụ hơn bốn mươi vạn dân Âu Lạc hàng nhà Hán, phong tước
Hầu, thực ấp tám trăm ba mươi hộ. Ngày nhâm thân tháng năm [năm Nguyên Đỉnh thứ
sáu thời Vũ Đế (năm thứ 111 trước Công nguyên)] phong” và “Hạ Phu Hầu Tả tướng
Hoàng Đồng làm Tả tướng của Âu Lạc ngày trước chém Tây Vu Vương, có công phong
tước Hầu, thực ấp bảy trăm hộ. Ngày đinh dậu tháng tư [năm Nguyên Phong đầu
tiên thời Vũ Đế (năm thứ 110 trước Công nguyên)] phong”.
Như
vậy theo Hán thư thì: công lao của Cư Ông và Hoàng Đồng cũng tương đương nhau
mà thôi. Thế nhưng tại sao Sử ký lại chỉ nhắc tới sự kiện Cư Ông dụ người Âu Lạc
mà lại không nhắc tới sự kiện Hoàng Đồng chém Tây Vu Vương trong Nam Việt Úy Đà
liệt truyện. Một lưu ý nữa cần chú ý là: năm Cư Ông được phong hầu là năm
111Tcn, tức là sau khi nhà Hán diệt Nam Việt, còn Hoàng Đồng thì được phong hầu
năm 110Tcn, tức là sau khi nhà Hán thôn tính Mân Việt. Nếu Hoàng Đồng chém Tây
Vu Vương năm 111Tcn ở Giao Chỉ (Nam Việt) thì hẳn là ông phải được phong hầu cùng
năm với Cư Ông.
Sử
ký chỉ cung cấp cho chúng ta thông tin về sự kiện Hoàng Đồng chém Tây Vu Vương
trong phần biểu, thật vậy Sử ký - Kiến Nguyên dĩ lai hầu giả niên biểu chép: “Hạ
Li Hầu vì làm Tả tướng của nước Âu Lạc chém Tây Vu Vương có công được phong hầu”.
Trong
khi Hán thư cung cấp thông tin cho chúng ta không chỉ trong phần biểu, Hán thư
- Cảnh Vũ Chiêu Tuyên Nguyên Thành công thần biểu chép: “Hạ Phu Hầu Tả tướng
Hoàng Đồng làm Tả tướng của Âu Lạc ngày trước chém Tây Vu Vương, có công phong
tước Hầu, thực ấp bảy trăm hộ. Ngày đinh dậu tháng tư [năm Nguyên Phong đầu
tiên thời Vũ Đế (năm thứ 110 trước Công nguyên)] phong. Hạ Phu Hầu tên Phụng
Hán nối nghiệp, ba năm sau, phạm tội chửi rủa Nhà vua, bắt chém ngang lưng. Huyền
tôn ở quận Nam Dương”.
Mà
còn trong cả phần truyện nhưng điều thú vị lại nằm trong chính thông tin mà phần
truyện này cung cấp, Hán thư - Mân Việt truyện (Tây Nam Di-Lưỡng Việt-Triều
Tiên truyện) chép: “Kịp lúc đó tướng của nước Đông Việt là Đa Quân, nghe tin
quân Hán đến, bèn bỏ quân hàng, được phong làm Vô Tích Hầu. Có viên tướng của
nước Âu Lạc là Tả Hoàng Đồng chém Tây Vu Vương, được phong làm Hạ Phu Hầu”.
Theo
như thông tin trên mà Hán thư chép thì: sự kiện Hoàng Đồng chém Tây Vu Vương xảy
ra tại Mân Việt vào năm 110Tcn, chứ không phải tại Giao Chỉ năm 111Tcn.
Tổng kết:
Như vậy là có cơ sở để khẳng định: sự kiện Hoàng Đồng chém Tây Vu Vương xảy ra
tại Mân Việt vào năm 110Tcn, đồng thời khẳng định không có cuộc khởi nghĩa Tây
Vu Vương nào ở Giao Chỉ, Cửu Chân vào năm 111Tcn.
II – ÂU LẠC VÀ TÂY ÂU TRONG SỬ KÝ
1.
Âu Lạc
Sử
ký - Nam Việt Úy Đà liệt truyện chép: “Thái
sử công nói: Quan Úy tên là Đà làm vua vốn bắt nguồn từ Nhâm Ngao. Gặp lúc nhà
Hán mới định, được xếp vào bậc chư hầu. Long Lư Hầu gặp khí ướt bệnh, cho nên
Đà được thế càng kiêu. Người Âu Lạc đánh nhau làm nước Nam Việt dao động. Quân
Hán vào cõi thì Anh Tề vào chầu. Sau đó mất nước là có gốc từ người con gái họ
Cù; Lữ Gia giữ lòng trung nhỏ mọn, khiến cho Đà không còn dòng dõi. Lâu thuyền
tướng quân theo ý muốn riêng mà khinh nhờn lầm lỗi; Phục ba tướng quân bị khốn
cùng mà tỏ rõ trí khôn, biến họa thành phúc. Sự biến chuyển của thắng thua ví
như tơ vò”.
Như
vậy thì căn cứ vào mạch truyện Âu Lạc trong câu “Người Âu Lạc đánh nhau làm nước
Nam Việt dao động” là chỉ Mân Việt.
Hán
thư - Nam Việt truyện chép: "Vả lại đất phía nam ẩm ướt, ở giữa Man Di,
phía tây có nước Tây Âu, dân chúng ở đây nửa yếu, ngoảnh mặt về phía nam xưng
Vương; phía đông có nước Mân Việt, dân chúng ở đây có vài nghìn người, cũng
xưng Vương; phía tây bắc có nước Trường Sa, dân chúng của nước ấy một nửa là
người Man Di, cũng xưng Vương. Lão phu tự ý hiệu xưng Đế, để tự làm vui. Lão
phu tự dẹp yên đất của trăm ấp, phía đông, tây, phía nam, bắc có mấy vạn, mấy
nghìn dặm, quân mang giáp có hơn trăm vạn, nhưng ngoảnh mặt về phía bắc mà xưng
thần theo nhà Hán, vì sao vậy? Là vì không dám quên việc của người trước".
(Thư gửi Hán Văn Đế của Triệu Đà).
Sử
ký - Nam Việt Úy Đà liệt truyện chép: “Lục Giả đến nước Nam Việt, Đà sợ lắm, soạn
thư tạ lỗi nói rằng: "Thần là kẻ già cả người Man Di tên là Đà. Ngày trước
Cao Hậu ngăn cách nước Nam Việt, thần trộm ngờ vua nước Trường Sa gièm thần, lại
nghe đồn rằng Cao Hậu giết hết họ hàng, đào đốt mộ tổ tiên của Đà, nên tự ý
đánh vào biên giới nước Trường Sa. Vả lại miền nam ẩm thấp, người Man-Di ở giữ,
phía đông có nước Mân Việt có ngàn người hiệu xưng làm vương, phía tây có nước
Âu Lạc là nước của dân cởi trần mà cũng xưng vương. Kẻ bầy tôi già này tự trộm
xưng hiệu đế là tạm để tự làm vui, há dám để vua trên nghe nói đến sao!".
Lại rập đầu tạ tội, nguyện mãi làm bầy tôi phên dậu, vâng chức cống”.
Như
vậy thì Tư Mã Thiên đã đổi Tây Âu (của Triệu Đà) thành Âu Lạc. Nên Âu Lạc trong
câu “phía tây có nước Âu Lạc là nước của dân cởi trần mà cũng xưng vương” là chỉ
Tây Âu.
Sử
ký - Kiến Nguyên dĩ lai hầu giả niên biểu chép: “Hạ Li Hầu vì làm Tả tướng của
nước Âu Lạc chém Tây Vu Vương có công được phong hầu”.
Như
phần trên chúng ta đã chứng minh sự kiện này xảy ra tại Mân Việt nên Âu Lạc
trong câu này có thể là chỉ Mân Việt hoặc có thể là chỉ Nam Việt.
Tổng kết:
Như vậy là Âu Lạc trong Sử ký được sử dụng để chỉ vùng rộng lớn gồm: Mân Việt,
Tây Âu, Nam Việt. Chúng ta có thể mở rộng: Âu Lạc là chỉ vùng rộng lớn mà nhà Tần
đã sai Đô Thư đem 50 vạn quân đi xâm chiếm.
2.
Tây Âu
Hoài
nam tử chép: “Truyện xưa viết: "Nhà Tần vong, tại sao vậy". Nguyên
nhân là sai Mông công (Mông Điềm) và Tương ông đưa 50 vạn quân xây trường
thành. Phía tây thì chiếm Lưu Sa, phía bắc thì đánh Liêu, phía đông thì
liên kết với Triều Tiên, các quận của Trung quốc phải kéo xe đi chinh chiến.
Lại ham những món lợi như sừng tê giác, ngà voi, ngọc phỉ thúy, trân châu, nên
sai quan úy là Đồ Thư mang 50 vạn quân, chia làm 5 đạo đi xâm chiếm (Bách
Việt). Một đạo đóng ở Đàm Thành, một đạo phòng thủ ở Cửu Nghi là
chỗ hiểm yếu, một đạo đóng ở Phiên Ngung làm đô thành, một đạo đóng ở Nam
Dã là nơi biên giới, một đạo đóng ỡ sông Dư Can. Ba năm quân không cởi
giáp, lúc nào cũng phải mang theo cung nỏ. Sử Lộc không tìm được hướng (để
tiến quân), mới tuyển lính đào kinh để chuyển binh lương đánh người (Bách) Việt,
giết vua Tây Âu là Dịch Hu Tống. Vì vậy người (Bách) Việt vào rừng rậm sống
chung cùng muông thú, không chịu để quân Tần bắt làm tù binh. Ho kén chọn ngưòi
tài trí và kiệt tuấn làm tướng, cứ đến đêm tối tấn công quân Tần, đạt được
chiến thắng lớn, giết quan úy Đồ Thư, quân Tần chết cả chục vạn”.
Chúng
ta biết rằng: Đàm Thành là một huyện của quận Vũ Lăng, Cửu Nghi là một vùng núi
ở quận Linh Lăng, Phiên Ngung thuộc quận Nam Hải, Nam Dã là một huyện
của quận Dự Chương, Dư Hãn (Dư Can) là một huyện của quân Dự Chương
(theo Hậu hán thư). Và kênh Linh Cừ chảy theo hướng đông sang tây, nối
Tương Giang (một chỉ lưu của sông Dương Tử) với Ly Giang (một chỉ lưu của sông
Tây Giang).
Như
vậy: Hầu hết các đạo quân Tần đều đóng ở khu vực rặng núi Ngũ Lĩnh.
Thêm
vào đó, Hoài Nam Tử cũng cho chúng ta biết thêm, quân Tần đã giết được vua nước
Tây Âu tuy nhiên người Việt không chịu hàng nên bầu thủ lĩnh mới và tiếp tục cuộc
kháng chiến.
Sử
ký chép: “Lại sai quan Úy là Đồ Thư đem quân thuyền lầu xuống phía nam đánh người
Bách Việt, sai quan Giám tên là Lộc đào kênh chở lương, vào sâu đất Việt, người
Việt bỏ trốn. Ngày dài chờ đợi, lương thực thiếu hết, người Việt ra đánh, quân
Tần thua to. Nhà Tần mới sai quan Úy tên là Đà đem quân đến đóng ở đất Việt.
Lúc bấy giờ, nhà Tần phía bắc gây họa binh đao với người Hồ, phía nam kết oán với
người Việt, đóng quân ở đất vô dụng, tiến không được mà lui cũng không được.
Trong hơn mười năm, đàn ông mặc giáp, đàn bà chuyển chở, khổ chẳng muốn sống, tự
treo cổ trên cây bên đường, tuyệt vọng nhìn nhau. Đến lúc Tần Hoàng Đế băng,
thiên hạ nổi lên chống” và “Năm thứ ba mươi ba (năm 214 TCN) phát những kẻ từng
trốn tránh, ở rể, nhà buôn đi cướp lấy dất Lục Lương, đặt thành các quận Quế
Lâm, Tượng, Nam Hải, đem lính thú đến giữ”.
Hán
thư chép: “Năm Nguyên Phượng thứ năm (năm 76 TCN), mùa thu, bỏ quận Tượng, chia
gộp vào các quận Uất Lâm, Tang Kha”.
Như
vậy là theo như Sử ký chép thì quân Tần
chiếm được đất Lục Lương đặt ra ba quận là Quế Lâm, Tượng, Nam Hải. Cũng theo
như Hán thư chép thì quận Tượng nằm giữa Uất Lâm và Tang Kha. Lại theo như Sử
ký thì quân Tần đóng ở đất vô dụng, tiến không được mà lui cũng không được, như
vậy là cuộc nam chinh của quân Tần dừng lại ở Tây Âu. Không có cơ sở để khẳng định,
quân Tần tiến xuống Giao Chỉ, Cửu Chân, Nhật Nam.
Sử
ký chép: “Hơn một năm thì Cao Hậu chết (năm 180Tcn) liền rút quân. Đà nhân đó
đem quân uy hiếp nơi biên giới, dùng tiền của trao tặng cho vua các nước Mân Việt,
Tây Âu Lạc, bắt vua các nước ấy theo phục”.
Theo
như Sử ký chép thì, vị thế của Tây Âu Lạc cũng tương tự như Mân Việt trong mối
quan hệ với Nam Việt. Sử ký lại chép: “Đến năm Kiến Nguyên thứ sáu(năm 135Tcn),
vua nước Mân Việt đánh nước Nam Việt”. Thông tin thú vị này cho thấy việc “bắt
vua các nước ấy theo phục” chỉ dừng lại ở mức độ nào đó mà thôi. Thực tế Mân Việt
cũng như Tây Âu Lạc hoàn toàn độc lập với Nam Việt. Thêm nữa, Sử ký chép: “Quan
giám quận Quế Lâm của Việt tên là Cư Ông dụ dân Âu Lạc đi theo nhà Hán”. Sự kiện
này củng cố việc Tây Âu hoàn toàn độc lập tới khi nhà Hán diệt Nam Việt năm
111Tcn. Âu Lạc trong câu này là chỉ vùng Quế Lâm, có thể cả Tượng.
Tổng kết:
Nhà Tần sai Đô Thư nam chinh, chiếm đất Lục Lương, đặt ba quận Nam Hải, Tượng,
Quế Lâm. Quân Tần vấp phải sự phản kháng mạnh mẽ của người Tây Âu ở Quế Lâm và
Tượng, sau khi Sử Lộc đào xong kênh Linh Cừ, quân Tần giết được quân trưởng và
chiếm được đất của người Tây Âu, nhưng đó cũng là thời điểm bắt đầu nhà Tần bị
sa lầy ở Tây Âu, cho tới khi diệt vong. Nam Việt hình thành sau đó, tồn tại
song song và độc lập với Tây Âu cho tới khi nhà Hán thôn tính năm 111Tcn.
3.
Tây Âu Lạc
Nam Việt Úy Đà liệt truyện chép:
“Hơn một năm thì Cao Hậu chết (năm 180Tcn), liền rút quân. Đà nhân đó đem quân
uy hiếp nơi biên giới, dùng tiền của trao tặng cho vua các nước Mân Việt, Tây
Âu Lạc, bắt vua các nước ấy theo phục” với Tập giải: “Hán thư âm nghĩa chép:
"Là người Lạc Việt". Họ Diêu xét: Quảng châu kí chép: "Quận Giao
Chỉ có ruộng Lạc, người dân trông nước dâng lên xuống mà làm ăn ở ruộng ấy gọi
là người Lạc, có Lạc Vương-Lạc hầu. Các huyện tự xưng là Lạc tướng, đeo ấn đồng
dây xanh, là quan Lệnh-Trưởng ngày nay vậy. Sau con của vua Thục đem quân đánh
Lạc hầu, tự xưng là An Dương Vương, đóng đô ở huyện Phong Khê. Sau vua nước Nam
Việt là Úy Đà đánh diệt An Dương Vương, lệnh hai sứ giả làm chủ dân hai quận
Giao Chỉ-Cửu Chân". Như vậy người Lạc là người Âu Lạc”.
Như vậy là các sử gia từ thời Ban Cố
trở đi đều chú Tây Âu Lạc là Tây Âu và Lạc. Lạc là chỉ vùng Giao Chỉ và Cửu
Chân do đó mà họ xem 2 vùng đất này thuộc Nam Việt. Tôi xin đưa ra một giả thuyết
khác, đó là: Tây Âu Lạc trong Sử ký là Âu Lạc ở phía tây.
* Thứ nhất:
Âu Lạc được tác giả cuốn Sử ký dùng để chỉ toàn bộ vùng Lĩnh Nam.
* Thứ hai:
Sử ký – Kiến Nguyên dĩ lai hầu giả niên biểu chép: “Hạ Li Hầu vì làm Tả tướng của
nước Âu Lạc chém Tây Vu Vương có công được phong hầu” và Hán thư - Mân Việt
truyện chép: “Kịp lúc đó tướng của nước Đông Việt là Đa Quân, nghe tin quân Hán
đến, bèn bỏ quân hàng, được phong làm Vô Tích Hầu. Có viên tả tướng của nước Âu
Lạc là Hoàng Đồng chém Tây Vu Vương, được phong làm Hạ Phu Hầu”. Vậy là nước Âu
Lạc mà Hoàng Đồng làm tả tướng có thể là Mân Việt hoặc Nam Việt.
Sử ký – Nam Việt Úy Đà liệt truyện
chép: “Kì đông Mân Việt thiên nhân chúng hiệu xưng vương, kì tây Âu Lạc lõa quốc
diệc xưng vương” (Phía đông, Mân Việt dân chúng ngàn người cũng xưng vương;
phía tây, Âu Lạc nước cởi trần cũng xưng vương). Vậy là ở phía tây Nam Việt
cũng có một nước tên là Âu Lạc, đây là căn cứ quan trọng khẳng định Tây Âu Lạc
trong Sử ký là Âu Lạc ở phía tây.
Việc
chúng ta hiểu Tây Âu Lạc là Tây Âu và Lạc có lẽ bắt nguồn từ tác phẩm của Lưu
An. Hoài Nam Tử chép: “Ba năm quân không cởi giáp, lúc nào cũng phải mang theo
cung nỏ. Sử Lộc không tìm được hướng (để tiến quân), mới tuyển lính đào
kinh để chuyển binh lương đánh người (Bách) Việt, giết vua Tây Âu là Dịch Hu Tống.
Vì vậy người (Bách) Việt vào rừng rậm sống chung cùng muông thú, không chịu
để quân Tần bắt làm tù binh”. Theo như đoạn trích thì phía tây Nam Việt có nước
Tây Âu đây có lẽ là cơ sở cho việc tách Tây Âu Lạc thành nước Tây Âu và Lạc.
Kết
luận: Âu Lạc được Tư Mã Thiên sử dụng trong Sử ký không
những được gọi chung cho toàn vùng Lĩnh Nam mà còn được dùng trong những văn cảnh
cụ thể để gọi tên các nước (của người Âu Lạc) ở phía nam dãy Ngũ Lĩnh như Mân
Việt, Nam Việt và Tây Âu.
III – GIAO CHỈ, CỬU CHÂN, NHẬT NAM
(NAM ÂU LẠC)
1.
Trong Sử ký
Sử
ký không cung cấp bất kỳ thông tin nào về ba quận Giao Chỉ, Cửu Chân, Nhật Nam (Nam
Âu Lạc). Chẳng hạn như:
Sử ký – Nam Việt Úy Đà liệt truyện
chép: “Quân của Qua thuyền tướng quân – Hạ lệ tướng quân và quân của nước Dạ
Lang mà Trì Nghĩa Hầu đem đi chưa xuống đến nơi thì đã bình nước Nam Việt rồi.
Bèn đặt thành chín quận. Từ lúc quan Úy
tên là Đà làm vua về sau là năm đời được chín mươi ba năm thì mất nước”. Hay
Sử ký – Bình chuẩn thư chép: “Nhà
Hán dùng binh ba năm liền (từ năm Nguyên Đỉnh thứ sáu đến năm Nguyên Phong thứ
hai), đánh người Khương, diệt nước Nam Việt, từ thành Phiên Ngu về phía tây đến
phía nam quận Thục đặt ra mười bảy quận mới tạm theo tục cũ của họ để trị,
không thu tô thuế. Các quận Nam Dương-Hán Trung trở đi đều tùy theo gần quận mới
nào mà cấp tiền lương, đồ dùng, đồ xe ngựa cho quan quân của quận mới đó”. Đáng
chú ý nhất là:
Sử ký – Hóa thực liệt truyện chép:
“Các quận Hành Sơn, quận Cửu Giang, đất Giang Nam, quận Dự Chương, quận Trường
Sa, là miền Nam Sở. Tính nết người dân phần lớn giống người miền Tây Sở. Sau
khi dời đô từ thành Dĩnh đến thành Thọ Xuân, cũng là một nơi đô hội. Mà huyện Hợp
Phì hai phía nam, bắc kề sông là nơi tụ góp da thú, cá ướp, gỗ. Người dân có
tính nết xen lẫn với người đất Mân Trung, Vu Việt. Cho nên người miền Nam Sở ưa
biện luận, khéo nói mà kém tín. Miền phía nam sông Giang ẩm ướt, đàn ông chết sớm.
Có nhiều tre, gỗ. Quận Dự Chương có vàng ròng; quận Trường Sa có quặng chì, thiếc,
nhưng những thứ này có ít ỏi, thu lấy không đủ để bù phí tổn. Từ núi Cửu Nghi,
quận Thương Ngô về phía nam đến quận Đam Nhĩ, tính nết người dân giống với phía
nam sông Giang, mà có nhiều người Dương Việt. Thành Phiên Ngu cũng là một nơi
đô hội, là nơi thu góp ngọc trai, sừng tê, đồi mồi, trái cây, vải”.
Rõ ràng, chúng ta có cơ sở để nghi
ngờ Nam Âu Lạc bị bắc thuộc hay theo như Sử ký thì không có bằng chứng, chứng
minh Nam Âu Lạc bị bắc thuộc. Đó là ít nhất tới năm Tư Mã Thiên soạn xong Sử ký
năm 91Tcn.
2. Trong Hán thư
Khoảng 150 năm sau khi Sử ký hoàn
thành, thì Hán thư cũng được viết. Chúng ta có thể dẫn ra những trích dẫn khá
rõ ràng về Nam Âu Lạc:
Hán thư chép: “Mùa xuân năm Nguyên
Đỉnh thứ sáu (năm 111 TCN), nhà vua đến làng Tân Trung huyện Cấp, lấy được đầu
của Lữ Gia, do đó đặt ra huyện Hoạch Gia. Quân của Trì Nghĩa Hầu chưa kịp xuống
đến nơi, nhà vua bèn sai đánh người Di miền tây nam, dẹp được chúng. Rồi đặt nước
Việt thành các quận Nam Hải, Thương Ngô, Uất Lâm, Hợp Phố, Giao Chỉ, Cửu Chân,
Nhật Nam, Châu Nhai, Đam Nhĩ”. Hay
Hán thư lại chép: “Tước hầu tên là
(Cư) Ích Xương nối tước, đến năm Nguyên Phượng thứ tư (năm 54 TCN) mắc tội khi
làm Thái thú Cửu Chân lén sai người ra mua tê ngưu, nô tì (người hầu gái), tôi
tớ (người hầu trai) từ trăm vạn người trở lên, làm việc vô đạo, bị tội chết”.
Vậy
là theo như Hán thư thì Nam Âu Lạc thuộc Hán từ những năm 111Tcn, một sự kiện rất
rõ ràng được biết tới ở Nam Âu Lạc là Thái thú Cửu Chân tên Cư Ích Xương bị tội
chết năm Nguyên Phượng thứ tư (năm 54Tcn).
3. Trong Thủy kinh chú
Thủy kinh chú do Lịch Đạo Nguyên viết
cách Hán thư khoảng trên dưới 500 năm tuy nhiên tác giả trích dẫn lại Giao châu
ngoại vực ký, đã bị thất lạc, cách Hán thư khoảng trên dưới 300 năm.
Giao châu ngoại vực ký chép: "Vua
nước (Nam) Việt sai hai sứ giả trông coi dân hai quận Giao Chỉ, Cửu Chân, sau
nhà Hán sai Phục ba tướng quân là Lộ Bác Đức đánh vua nước Việt, Lộ tướng quân
đến quận Hợp Phố, vua nước Việt sai hai sứ giả đem một trăm con bò, một ngàn vò
rượu cùng sổ hộ khẩu dân hai quận đến gặp Lộ tướng quân, bèn bái hai sứ giả làm
Thái thú của hai quận Giao Chỉ, Cửu Chân, các Lạc tướng vẫn trị dân như cũ”.
Trong khi như Sử ký chép: “Mùa thu
năm Nguyên Đỉnh thứ năm (năm 112 TCN), lấy Vệ úy là Lộ Bác Đức làm Phục ba tướng
quân, xuất từ quận Quế Dương, xuống sông Hối; lấy Chủ tước đô úy là Dương
Bộc làm Lâu thuyền tướng quân, xuất từ quận Dự Chương, xuống cửa Hoành Phố; hai
người Việt ngày trước được phong làm Quy Nghĩa Hầu làm Qua thuyền tướng
quân, Hạ lệ tướng quân, xuất từ quận Linh Lăng, có nguời xuống sông
Li, có người đến nước Thương Ngô; sai Trì Nghĩa Hầu đem người có tội
đất Ba-Thục đến phát quân của nước Dạ Lang, xuống sông Tang Kha. Đều
hẹn gặp ở thành Phiên Ngu.
Mùa đông năm Nguyên Đỉnh thứ sáu
(năm 111 TCN), Lâu thuyền tướng quân đem quân mạnh đánh vào vách núi Tầm, phá cửa
đá, lấy được thóc trên thuyền của người Việt, nhân đó lên phía trước, đánh
gãy mũi nhọn của người Việt, đem vài vạn người đợi Phục ba tướng quân. Phục ba
tướng quân đem kẻ có tội đi đường xa, hẹn gặp sau, rồi chỉ có mấy ngàn người hội
với Lâu thuyền tướng quân, bèn cùng đi. Lâu thuyền tướng quân đi trước đến
thành Phiên Ngu. Kiến Đức-Lữ Gia cùng giữ thành. Lâu thuyền tướng quân tự chọn
chỗ lợi, đóng quân ở mé đông nam; Phục ba tướng quân đóng quân ở mé tây bắc. Kịp
lúc trời tối, Lâu thuyền tướng quân đánh bại người Việt, phóng lửa đốt thành.
Người Việt vốn nghe nói về tiếng tăm của Phục ba tướng quân, lại trời tối không
biết quân kia nhiều hay ít. Phục ba tướng quân liền đóng trại, sai sứ giả đến gọi
kẻ hàng đến, ban cho ấn, lại tha về sai dụ nhau. Lâu thuyền tướng quân ra sức đốt
địch, quân địch quay lại vào trong trại của Phục ba tướng quân. Kịp lúc trời mờ
sáng, người trong thành đều hàng Phục ba tướng quân. Lữ Gia-Kiến Đức từ buổi
đêm đã cùng mấy trăm thuộc hạ trốn vào sông lớn, lấy thuyền đi về phía tây. Phục
ba tướng quân lại nhân đó hỏi những kẻ có chức cao đã hàng mình, biết chỗ mà Lữ
Gia chạy đến, sai người đuổi theo. Do đó viên Hiệu úy tư mã là Tô Hoằng bắt được
Kiến Đức, được phong làm Hải Thường Hầu; quan Lang người Việt là Đô
Kê bắt được Gia, phong làm Lâm Sái Hầu”.
Theo như Sử ký thì vua Việt là Kiến
Đức và thừa tướng Lữ Gia ngay từ đầu đã chống lại nhà Hán, quyết giữ thành và
đánh nhau với Lộ tướng quân, không hề có chuyện sai 2 sứ giả trông coi hai quận
Giao Chỉ và Cửu Chân tới gặp Lộ Bác Đức.
4. Trong Hậu Hán thư
Hậu Hán thư được Phạm Diệp soạn vào
thế kỷ thứ 5, cũng cách Hán thư tương đối xa, tuy nhiên đây là cuốn sử cung cấp
nhiều thông tin về Nam Âu Lạc, cũng như những đánh giá cao về giá trị của nó.
Sử
ký chép: “Nhà Hán dùng binh ba năm liền (từ năm Nguyên Đỉnh thứ sáu đến năm
Nguyên Phong thứ hai) đánh người Khương, diệt nước Nam Việt, từ thành Phiên Ngu
về phía tây đến phía nam quận Thục đặt ra mười bảy quận mới tạm theo tục cũ của
họ để trị, không thu tô thuế. Các quận Nam Dương-Hán Trung trở đi đều tùy theo
gần quận mới nào mà cấp tiền lương, đồ dùng, đồ xe ngựa cho quan quân của quận
mới đó”.
Theo
như đó, giả như Nam Âu Lạc có bị nhà Hán thôn tính năm 111Tcn, thì ở Nam Âu Lạc
vẫn sử dụng tục cũ của người Việt để trị, chứ không theo luật của người Hán. Đồng
thời cũng không thu tô thuế. Đến thời Vương Mãng thì như.
Hậu
hán thư chép: “Thời Bình Đế (năm 1Tcn - năm 5), người quận Hán Trung là Tích
Quang làm Thái thú Giao Chỉ, dạy bảo dân chúng dần dần theo lễ nghĩa. Tên tuổi
sánh ngang với Diên. Cuối thời Vương Mãng, đóng bờ cõi tự giữ. Đầu năm Kiến Vũ,
sai sứ giả nạp cống, phong làm Diêm Thủy Hầu. Phong tục ở đất Lĩnh Nam bắt đầu
từ hai quan Thái thú ấy”.
Chúng
ta biết được phong tục Hán, được truyền bá đầu tiên ở đất Lĩnh Nam, bởi hai
viên quan Thái thú là Tích Quang và Nhâm Diêm. Nhưng đến năm 34, khi Tô Định
làm Thái Thú Giao Chỉ đã:
“Trưng Trắc là con gái của Lạc tướng
Mi Linh, gả làm vợ của người huyện Chu Diên là Thi Sách, rất hùng dũng. Thái
thú Giao Chỉ là Tô Định lấy pháp luật ép buộc, Trắc oán giận, cho nên làm phản”.
(Lời chú của Lý Hiền trong Mã Viện liệt truyện – Hậu Hán thư).
Theo đó, chính Tô Định đã áp dụng
luật Hán ở Nam Âu Lạc, thay thế cho tục Việt, việc này đã góp phần nổ ra cuộc
khởi nghĩa của Hai Bà, để rồi nhà Hán cử Mã Viện dẫn quân xuống phương nam để
đàn áp. Và như Viện tâu
Hậu
Hán thư chép: “Tấu kể luật của người Việt khác với luật của người Hán đến hơn
mười điều, liền nêu rõ phép tắc cũ với người Việt để gò buộc họ, từ đó về sau
người Lạc Việt làm theo phép cũ của Mã tướng quân”.
Như vậy thì, theo như Hậu Hán thư,
thì ít nhất là sau năm 43, người Việt mới chịu tuân theo luật Hán, còn trước đó
họ vẫn sử dụng luật Việt.
Chúng ta đã thấy và sẽ thấy, hình
thức tô thuế không được áp dụng tại Nam Âu Lạc, ít nhất cho tới năm 34, mà chỉ
tồn tại hình thức cống nạp. Có sự khác nhau tương đối giữa hai hình thức này, nếu
như hình thức tô thuế, mang tính phổ quát trong toàn xã hội, chính quyền tại địa
phương, cấp quận huyện chỉ là cơ quan trung gian, thực hiện mối quan hệ giữa triều
đình và dân chúng, nó khẳng định sự tồn tại của quan hệ quản lý. Thì hình thức
cống nạp mang tính cục bộ, thể hiện mối quan hệ mà chủ đạo là giữa triều đình với
chính quyền địa phương, thường là cấp quận, mà ở đây là giữa Hán triều với Thái
thú các quận. Nên trên thực tế chưa thể nói gì về mối quan hệ giữa triều đình với
người dân, khi không xác định được nguồn gốc của đồ cống nạp, nó có thể là đồ nộp
của người dân để cống triều đình hoặc có thể do quan lại có được (để cống triều
đình) nhưng không phải từ người dân.
Hán
thư chép: “Tước hầu tên là (Cư) Ích Xương nối tước, đến năm Nguyên Phượng thứ
tư (năm 54 TCN) mắc tội khi làm Thái thú Cửu Chân lén sai người ra mua tê ngưu,
nô tì (người hầu gái), tôi tớ (người hầu trai) từ trăm vạn người trở lên, làm
việc vô đạo, bị tội chết”.
Theo
như đó, Cư Ích Xương được ghi nhận là Thái thú ở Nam Âu Lạc đầu tiên được biết
tới.
Hậu
hán thư chép: “Thời Bình Đế (năm 1Tcn - năm 5), người quận Hán Trung là Tích
Quang làm Thái thú Giao Chỉ, dạy bảo dân chúng dần dần theo lễ nghĩa. Tên tuổi
sánh ngang với Diên. Cuối thời Vương Mãng, đóng bờ cõi tự giữ. Đầu năm Kiến Vũ,
sai sứ giả nạp cống, phong làm Diêm Thủy Hầu. Phong tục ở đất Lĩnh Nam bắt đầu
từ hai quan Thái thú ấy”.
Hậu
hán thư chép: “Trước đây, Bành thân thiết với quan Mục bộ Giao Chỉ là Đặng Nhượng,
gửi thư nêu rõ oai đức của nhà nước, lại sai Thiên tướng quân là Khuất
Sung gửi hịch đến các quận miền phía nam sông Giang, ban bố chiếu lệnh, do đó
Nhượng cùng bọn Thái thú Giang Hạ là Hầu Đăng, Thái thú Võ Lăng là Vương Đường,
Thừa tướng Tràng Sa là Hàn Phúc, Thái thú Quế Dương là Trương Long, Thái thú
Linh Lăng là Điền Hấp, Thái thú Thương Ngô là Đỗ Mục, Thái thú Giao Chỉ là Tích
Quang cùng nhau sai sứ nạp cống, đều được phong làm liệt hầu” và “Năm Kiến Võ
thứ năm (năm 29) mùa đông, tháng mười hai, quan Mục bộ Giao Chỉ là Đặng Nhượng
dẫn đầu các Thái thú của bảy quận sai sứ đến nạp cống”.
Tiếp
theo, người được biết tới là Tích Quang, làm Thái thú Giao Chỉ, từ thời Bình Đế
(năm 1Tcn – năm 5). Theo Hoa dương quốc chí do Thường Cừ soạn thời nhà Tấn (năm
266 – năm 420) chép: “Quận Ngụy Hưng vốn là huyện Tây Thành quận Hán Trung. Vào
thời Ai-Bình, người huyện là Tích Quang tên chữ là Trường Xung làm Thứ sử châu
Giao (bộ Giao Chỉ), chuyển làm Thái thú Giao Chỉ. Kịp lúc Vương Mãng cướp ngôi,
bèn chiếm quận không chịu theo. Bấy giờ Mãng đang có việc trong nước, chưa chú
ý đến quận. Kịp lúc trong nước dấy binh, rút cuộc tự giữ quận. Vua Canh Thủy
lên ngôi, cho làm quan cũ. Thế Tổ (vua Quang Võ) khen lòng trung ấy, gọi về bái
làm Đại tướng quân, Triều hầu tế tửu, phong tước Diêm Thủy Hầu”.
Căn
cứ vào sự kiện Tích Quang được gọi về, bái làm Đại tướng quân, Triều hầu tế tửu,
phong tước Diêm Thủy Hầu, thì Tích Quang thôi giữ chức Thái thú quận Giao Chỉ
năm 29. Như thế tới khi có Thái thú thay thế là Tô Định năm 34, thì cũng đến 5
năm Giao Chỉ không có Thái thú.
Chúng
ta cũng thấy, Bành không những gửi thư cho Nhượng, mà còn phải sai Sung gửi hịch
ban bố chiếu lệnh, đồng thời việc quan Mục bộ Giao Chỉ cùng Thái thú bảy quận
sai sứ đi cống, cho thấy sự tự chủ của các quận.
Hậu
Hán thư chép: “Nhâm Diên tự Trường Tôn, người huyện Uyển,
quận Nam Dương. Năm mười hai tuổi làm học trò, học ở thành Trường An, hiểu rõ
kinh "Thi", "Dịch", "Xuân thu", tên tuổi lẫy lừng
ở nhà Thái học” và “Đầu
năm Kiến Vũ (năm 25 đến năm 56), Diên dâng thư lên nhà vua muốn xin về quê, quỳ
bái ở triều đình. Chiếu lệnh đi làm Thái thú Cửu Chân. Quang Vũ sai dẫn đến
gặp, ban cho ngựa, lụa, ra lệnh cho vợ con ở lại thành Lạc Dương”.
Chúng
ta thấy, trong các quận cử sứ đi cống nạp, không có quận Cửu Chân và Nhật Nam. Xem
chiếu lệnh cho quan văn Nhâm Diên (hiểu rõ sách kinh) sang làm Thái thú quận Cửu
Chân, sau khi nhóm Đặng Nhượng quy thuận năm 29, đã khẳng định, quận Cửu Chân
không có Thái thú. Ít nhất là suốt thời kỳ nhà Tân.
Hậu
hán thư chép: “Năm Kiến Vũ thứ mười hai (năm 36), người
Man Lí ở vùng Kiếu Ngoại quận Cửu Chân là Trương Du thống lĩnh người của bộ lạc
mình yêu thích lễ nghĩa xin nội thuộc, phong làm Quy Hán Lí Quân. Năm sau, người
Man Di ở vùng Kiếu Ngoại đất Nam Việt dâng chim trĩ trắng, thỏ trắng. Đến năm
thứ mười sáu (năm 40), người con gái ở quận Giao Chỉ là Trưng Trắc cùng em gái
của mình là Trưng Nhị làm phản, đánh quận”.
Hậu Hán thư chép: “Diên coi việc được
bốn năm, nhà vua gọi về thành Lạc Dương, bị bệnh ở lại đấy, rồi chuyển làm quan
Lệnh huyện Tuy Dương, quan dân quận Cửu Chân dựng đền thờ sống Diên”.
Năm
36 thủ lĩnh Man Lí ở quận Cửu Chân xin được nội thuộc, nghĩa là trước đó vùng Cửu
Chân tự chủ. Hay Nhâm Diên làm Thái thú Cửu Chân được 4 năm, đến năm 33, thì bị
thủ lĩnh Man Lí tên Trương Du, chống lại, nên đành bỏ về phương bắc, có thể vì
thế mà năm 34 nhà Đông Hán cử võ tướng Tô Định sang. Dưới áp lực ấy, hai năm
sau Trương Du phải xin nội thuộc. Nhưng xuất hiện câu hỏi thú vị: Nhân vật
Trương Du này có vai trò không trong cuộc khởi nghĩa Hai Bà và cuộc chiến giữa
Mã Viện với Đô Dương? Như Hậu hán
thư chép: “Viện đem hơn hai ngàn chiếc thuyền lầu lớn nhỏ, hơn hai vạn chiến sĩ
đi đánh bè đảng của Trưng Trắc là bọn Đô Dương ở quận Cửu Chân, từ huyện Vô
Công đến huyện Cư Phong”.
Như vậy có thể thấy, vai trò của các
Thái thú là không có đối với xã hội Nam Âu Lạc, việc Giao Chỉ tới 5 năm, Cửu
Chân thì ít nhất là thời kỳ nhà Tân không có Thái thú, mà xã hội chẳng hề có
chút xáo trộn nào cả. Có lẽ là bởi, cái hệ thống thực sự điều hành xã hội Nam Âu
Lạc nằm ở chỗ khác, chứ không phải nằm ở chức Thái thú, cái hệ thống ấy tương tự
như Chế độ Lạc tướng mà đã có lần Giao Châu ngoại vực ký đề cập đến “các Lạc tướng
vẫn trị dân như cũ”.
Cái hệ thống tương tự chế độ Lạc tướng
này có từ khi nào? Chắc chắn không phải thời Hán rồi, vì trước khi Lộ tướng
quân tới năm 111Tcn, thì cái chế độ này đã có rồi và chính ông để các Lạc tướng
trị dân như cũ. Cũng chắc chắn không phải từ thời Nam Việt, vì vua Nam Việt chỉ
đặt 2 viên điểm sứ trông coi Giao Chỉ và Cửu Chân mà thôi. Khi quân Tần tiến
đánh Tây Âu, đã giết được quân trưởng của Tây Âu tên Dịch Hu Tống. Vậy có thể
khẳng định, chế độ Lạc tướng vốn là chế độ nguyên bản của xã hội Nam Âu Lạc và
nó vẫn giữ được vai trò quyết định đối với xã hội Nam Âu Lạc trước khi diễn ra
cuộc khởi nghĩa Hai Bà.
Như vậy: Trong
suốt thời kỳ từ Nam Việt đến Đông Hán (năm 34). Các triều đại phương bắc coi
Nam Âu Lạc là lãnh thổ của mình và chia thành các quận huyện, đặt các chức quan
quản lý song chỉ dừng lại trên danh nghĩa. Thực tế, Nam Âu Lạc vẫn hoàn toàn tự
chủ, với chế độ hành chính-quyền lực (chế độ Lạc tướng) và luật pháp (tục Việt)
riêng biệt, vốn là chế độ nguyên bản của xã hội Nam Âu Lạc.
Trước thời điểm năm 34 không hề có sự xâm phạm lợi
ích của Nam Âu Lạc trên tầm phổ quát, nhưng thực tế đã thay đổi khi võ tướng Tô
Định được cử sang làm Thái thú Giao Chỉ. Nhà Tây Hán cũng như Nam Việt trước
đây đã sử dụng kế sách Hòa hợp Bách Việt. Thông qua Tô Định, nhà Đông Hán chuyển
từ kế sách này sang chính sách Khai thác thuộc địa. Sự xâm phạm quyền lợi của
Nam Âu Lạc xuất hiện, đồng thời hình thành ý thức rõ rệt về sự xâm lược này. Để
rồi
Hậu hán thư chép: “Đến năm thứ mười sáu (năm 40) có người con
gái quận Giao Chỉ là Trưng Trắc cùng em gái là Trưng Nhị làm phản, đánh quận.
Do đó người Man-Lí các quận Cửu Chân, Nhật Nam, Hợp Phố đều ứng theo, đánh cướp
cả thảy sáu mươi lăm thành, tự lập làm vua”.
Một điểm khá thú vị ở
trích dẫn trên là, ngoài hai quận Cửu Chân và Nhật Nam hưởng ứng cuộc khởi
nghĩa là điều có thể hiểu được, thì còn có quận Hợp Phố. Từ đó phỏng đoán, Hợp
Phố là lãnh thổ của người Tây Âu, nên Thương Ngô và Uất Lâm là lãnh thổ của Nam
Việt. Tây Âu và Nam Âu Lạc gần gũi về địa lý, người Tây Âu và người Nam Âu Lạc (Lạc
Việt) gần gũi về tập tục, văn hóa, ngôn ngữ, xã hội. Mỗi tộc người sống tập
trung tại những khu vực nhất định, là trung tâm của từng tộc người và về cơ bản
mỗi tộc người có lãnh thổ riêng tương đối ổn định, song tồn tại ít nhiều việc sống
xen kẽ với nhau giữa hai tộc Tây Âu và Lạc.
Tổng kết: Cho tới năm 34 Nam Âu Lạc vẫn độc lập, tự chủ. Có chế độ chính trị (Chế
độ Lạc tướng), có Luật pháp (Luật Việt) từ thời vua Hùng. Những chính sách của
bắc triều chỉ là hình thức. Tuy nhiên Nam Âu Lạc cũng bước đầu tiếp xúc với
hình thái khác. Từ năm 34, sự áp đặt về nhiều mặt từ nhà Đông Hán thông qua Tô
Định, khiến cấu trúc xã hội Nam Âu Lạc biến đổi, sự xâm lược được ý thức ngày
càng rõ ràng, cho tới năm 40, ý thức ấy được cụ thể hóa bằng cuộc khởi nghĩa của
Hai Bà Trưng. Đây là cuộc khởi nghĩa (kháng chiến) rộng khắp, thành công và vĩ
đại. Năm 34 là năm bắc triều chuyển từ chính sách hòa hợp Bách Việt (cơ sở)
sang Khai thác thuộc địa, từ (tự nhận) Cai trị danh nghĩa sang Cai trị thực chất
(xâm phạm lãnh thổ).
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét