AN
NAM ĐÔ HỘ PHỦ (I)
I - KHỞI NGHĨA ĐỖ ANH HÀN
1.
Chúng ta biết sự kiện năm Trinh Nguyên thứ 7 (năm 791) người An Nam tấn công phủ,
Đô hộ Cao Chính Bình lo lắng mà chết. Tuy nhiên về tiểu sử của thủ lĩnh người
An Nam vẫn còn gây nên những nghi ngại!
Sách Đại Việt sử ký toàn thư hoàn
thành vào năm 1479 do Ngô Sĩ Liên soạn trên cơ sở chỉnh lý và bổ sung hai bộ sử
trước đó cùng mang tên là Đại Việt sử ký của Lê Văn Hưu và Phan Phu Tiên chép:
“Tân Mùi [791] (Đường Trinh Nguyên năm thứ 7). Mùa xuân, An Nam
đô hộ phủ là Cao Chính Bình làm việc quan bắt dân đóng góp nặng. Mùa hạ, tháng
4, người ở Đường Lâm thuộc Giao Châu (Đường Lâm thuộc huyện Phúc Lộc) là
Phùng Hưng dấy binh vây phủ. Chính Bình lo sợ mà chết. Trước đây Phùng Hưng vốn
là nhà hào phú, có sức khỏe, có thể vật trâu, đánh hổ. Khoảng niên hiệu Đại
Lịch [766-779] đời Đường Đại Tông, nhân Giao Châu có loạn, cùng với em là Hãi
hàng phục được các ấp bên cạnh, Hưng xưng là Đô Quân, Hãi xưng là Đô Bảo, đánh
nhau với Chính Bình, lâu ngày không thắng được. Đến đây dùng kế của người làng
là Đỗ Anh Hàn, đem quân vây phủ. Chính Bình lo sợ phẫn uất thành bệnh ở lưng mà
chết. Hưng nhân đó vào đóng ở phủ trị, chưa được bao lâu thì chết. Con là An
tôn xưng làm Bố Cái Đại Vương (tục gọi cha là Bố, mẹ là Cái, cho nên lấy [Bố
Cái] làm hiệu). Vương thường hiển linh, dân cho là thần, mới làm đền thờ ở phía
tây phủ đô hộ, tuế thời cúng tế (tức là Phu hựu chương tín sùng nghĩa Bố Cái
Đại Vương. Đền thờ nay ở phường Thịnh Quang, ở phía đông nam ruộng tịch
điền).
Tháng 5, ngày Tân Tỵ, nhà Đường đặt
quân Nhu Viễn ở phủ trị. Mùa thu, tháng 7, ngày Canh Thìn, nhà Đường lấy Triệu
Xương làm đô hộ. Xương vào cõi, lòng dân bèn yên. Xương sai sứ dụ An, An đem
quân hàng. Xương đắp thêm La Thành kiên cố hơn trước, ở chức 17 năm, vì đau
chân xin về. Vua Đường chuẩn cho, lấy Lang trung bộ Binh là Bùi Thái thay
Xương”.
Sách Khâm định Việt sử thông giám
cương mục do Quốc Sử Quán triều Nguyễn soạn
thảo vào khoảng năm 1856-1884
chép:
“Năm Tân Mùi
(791). (Đường, Đức Tông, năm Trinh Nguyên thứ 7). Tháng 4, mùa hạ. Người Đường
Lâm thuộc Phong Châu là Phùng Hưng khởi binh, đánh phủ đô hộ và chiếm giữ phủ lỵ.
Trước kia Phùng
Hưng người Đường Lâm thuộc Phong Châu, vốn là nhà hào phú, lại có sức khỏe, có
thể vật nổi trâu, đánh được hổ. Khoảng năm Đại Lịch (766-779) nhà Đường, nhân
thời buổi loạn lạc, Phùng Hưng cùng với em là Phùng Hải đem quân uy phục được
các ấp láng giềng, tự xưng là đô quân; Phùng Hải xưng là đô bảo. Khi bấy giờ
chính sách của đô hộ là Cao Chính Bình, đánh thuế nặng lắm. Phùng Hưng đánh
Chính Bình mãi không được, mới dùng kế của người làng là Đỗ Anh Hàn, đem quân đến
vây phủ: Chính Bình vì lo sợ mà chết. Phùng Hưng vào ở trong phủ lạy, được ít
lâu thì mất. Dân chúng lập con là An lên làm đô phủ quân, tôn Hưng làm Bố Cái đại
vương.
Lời chữa:
- Cao Chính
Bình: Theo sách An nam kỷ yếu, Cao Chính Bình người thời Đại Tông nhà Đường,
trước làm đô úy Vũ Định, vì có công đem quân cứu viện Trương Bá Nghi, được
phong làm đô hộ.
- Đường Lâm: Tên
xã xưa. Sử cũ chua ở huyện Phúc Lộc. Phúc Lộc nay đổi tên là Phúc Thọ thộc tỉnh
Sơn Tây. Xét theo Sơn Tây tỉnh sách , xã Cam Lâm thuộc huyện Phúc Thọ, xưa gọi
là Đường Lâm . Phùng Hưng và Ngô Quyền đều là người xã này cả. Bây giờ vẫn còn
đền thờ.
- Phong Châu: Sử
cũ chép lầm là Giao Châu, nay sửa lại. Xét Đường thư, bản kỷ, đời Đức Tông, năm
Trinh Nguyên thứ 7 (năm 791), chỉ chép rằng tù trưởng An Nam là Đỗ Anh Hàn làm
phản, chứ không chép việc Phùng Hưng, có lẽ vì ở cách xa nước ta, nên không rõ
có việc Phùng Hưng.
- Bố Cái: Sử cũ
chua tục cổ nước ta gọi cha là bố gọi mẹ là cái, nên đặt Bố Cái làm tôn hiệu.
Tháng 7, mùa
thu. Nhà Đường dùng Triệu Xương làm đô hộ.
Theo sách An Nam
kỷ yếu, bấy giờ Giao Châu chưa yên, Triệu Xương đến nơi, vỗ về phủ dụ, lòng dân
mới yên. Triệu Xương sai sứ đến dụ Phùng An, Phùng An đem quân ra hàng, Triệu
Xương được gia phong làm kinh lược chiêu thảo xử trí sứ, Triệu Xương đắp thêm
La Thành, đi thăm khắp nơi núi sông danh thắng, cổ tích, đền miếu ở các đô quận,
chép làm sách Phủ chí. Triệu Xương ở phủ được mười năm, vì đau chân, dâng biểu
xin người khác sang thay.
Lời chữa:
- Triệu Xương: Theo Đường thư, Triệu Xương tên
tự là Hồng Tô, người Thiên Thủy, được thăng dần đến chức thứ sử Kiền Châu. Khi
Đỗ Anh Hàn ở An Nam làm phản, nhà Đường dùng Xương làm đô hộ, dân Giao Châu hưởng
ứng giáo hóa, không dám ngang ngược, Xương làm được mười năm, vì đau chân, xin
về”.
Như vậy là cả hai bộ quốc sử của nước ta đều chép về
thủ lĩnh của người An Nam là Phùng Hưng, quê ở Đường Lâm. Tuy nhiên cả hai bộ
quốc sử này đều được soạn cách sự kiện khoảng thời gian rất dài và đều chép dựa
trên các nguồn tài liệu khác. Sách Khâm Định Việt sử thông giám cương mục có nhắc
tới “Lời bản của Ngô Sĩ Liên” điều đó chứng tỏ, Quốc sử quán triều Nguyễn đã
tham khảo Đại Việt sử ký toàn thư. Ngoài ra, Khâm Định Việt sử thông giám cương
mục có dẫn sách An Nam kỷ yếu (An Nam chí nguyên) do Cao Hùng Trưng soạn vào thời
Minh (năm 1368 – 1644). Sách này được soạn vào thời điểm sau Đại Việt sử ký toàn
thư và trước Khâm Định Việt sử thông giám cương mục, do đó chúng ta có thể xếp
3 sách: Đại Việt sử ký toàn thư; An Nam chí nguyên; Khâm định Việt sử thông giám
cương mục vào cùng nhóm.
Quốc sử quán triều Nguyễn khi soạn Khâm định Việt sử
thông giám cương mục đã tham khảo rất nhiều nguồn tài liệu, trong đó có ghi chú
rất quan trọng: “Xét Đường thư, bản kỷ, đời Đức Tông, năm Trinh Nguyên thứ 7 (năm
791), chỉ chép rằng tù trưởng An Nam là Đỗ Anh Hàn làm phản, chứ không chép việc
Phùng Hưng”. Thật vậy:
Cựu Đường thư do
Lưu Hú soạn từ năm 941 đến năm 945 chép: “Mùa hạ, tháng 4 (lược 1 đoạn) Kỷ Mùi,
An Nam thủ lĩnh Đỗ Anh Hàn phản, tấn công đô hộ phủ. Đô hộ Cao Chính Bình lo lắng
mà chết”.
Tân Đường thư do
Âu Dương Tu soạn từ năm 1044 đến năm 1054 chép: “Tháng 4, An Nam thủ lĩnh Đỗ
Anh Hàn phản. Giết”.
Tân Đường thư,
Truyện Triệu Xương chép: “Triệu Xương tự là Hồng Tộ, người Thiên Vĩnh. Ban đầu
làm liệu thuộc cho Chiêu Nghĩa Lý Thừa Chiêu Tiết độ sứ, dần được thăng làm Kiền
châu Thứ sử. An nam tù lão Đỗ Anh Hàn làm phản, Đô hộ Cao Chính Bình lo lắng
chuyện đó mà chết. Thăng Triệu Xương làm An Nam Đô hộ. Các bộ lạc Di đều quay về
với triều đình, không dám nổi dậy nữa”.
Tư trị thông
giám do Tư Mã Quang soạn hoàn thành năm 1084 chép: “An Nam Đô hộ Cao Chính Bình
đánh thuế nặng. Mùa hạ tháng 4, bọn Quần Man tù trưởng Đỗ Anh Hàn khởi binh vây
đô hộ phủ. Chính Bình lo lắng mà chết. Quần Man nghe tin đó đều hàng”.
Như vậy là cả 3
bộ sách sử được đánh giá cao trong các bộ sách sử của Trung Quốc đều không có
ghi chép gì về Phùng Hưng. Điều đáng chú ý là cả 3 bộ sử này đều chép gần với
thời điểm xảy ra sự kiện hơn 2 bộ quốc sử của nước ta. Trong đó Cựu Đường thư là
gần nhất, cách sự kiện cũng tới 170 năm.
Giải
thích cho việc các bộ Hán sử không ghi chép về nhân vật Phùng Hưng, Quốc sử quán
triều Nguyễn viết: “có lẽ vì ở cách xa nước ta, nên không rõ có việc Phùng Hưng”.
Đây khó có thể là lời giải thích trọn vẹn được bởi vì: Sử sách Trung Quốc đều
chép rất rõ về việc phủ bị người An Nam tấn công, đô hộ Cao Chính Bình lo lắng
mà chết và còn cho biết thủ lĩnh của người An Nam tên là Đỗ Anh Hàn.
Tài liệu ghi chép
về Phùng Hưng được cho là nguồn tham khảo của Đại Việt sử ký toàn thư là Việt điện
u linh tập của Lý Tế Xuyên viết năm 1329. Việt điện u linh tập truyện Bố Cái đại
vương viết:
“Xét Giao Châu
Ký của Triệu Vương chép rằng: Vương họ Phùng tên Hưng, thế tập Biên Khố Di Tù
Trưởng châu Đường Lâm, hiệu là Quan Lang (man tục nay còn). Vương gia tư hào hữu,
sức lực dũng mãnh, đánh được hổ, vật được trâu; người em tên là Hãi cũng có sức
mạnh kỳ dị, vác được một tảng đá nặng mười nghìn cân, hay một chiếc thuyền con
chở nghìn hộc mà đi hơn mười dặm; mọi lào thấy vậy đều kinh hãi. Giữa niên hiệu
Đại Lịch nhà Đường, nhân nước An Nam ta có quân loạn, anh em đem nhau đi tuần
các ấp lân cận đều hạ được cả, đi đến đâu thì chỗ ấy tan tác. Đắc chí rồi, Hưng
cải danh là Cự Lão, Hãi cũng đổi tên là Cự Lực; Vương hiệu là Đô Quán, Hãi hiệu
là Đô Bảo, dùng kế hoạch của người Đường Lâm là Đỗ Anh Hậu đem binh tuần hành mấy
châu Đường Lâm, Trường Phong, thảy đều quy thuận cả; uy danh chấn động, dương
ngôn muốn đánh lấy Đô Hộ Phủ. Lúc bấy giờ quan Đô Hộ là Cao Chính Bình đem binh
dưới trướng ra đánh không hơn được, ưu phẫn phát bệnh vàng da mà chết. Vương
vào Đô Phủ thị sự bảy năm rồi mất; dân chúng muốn lập em là Hãi lên nối ngôi.
Có kẻ phụ tá đầu mục là Bồ Phá Lặc, sức có thể bài sơn cử đỉnh, dũng lực tuyệt
luân, có ý không theo mới lập con Vương là An, rồi đem quân chống Hãi; Hãi
tránh Bồ Phá Lặc, dời qua ở động Chu Nham, sau đấy không biết ra sao nữa. An
tôn Hưng là Bố Cái Đại Vương, bởi quốc tục xưng cha là “Bố”, mẹ là “Cái” nên mới
gọi như vậy. An lên kế vị được hai năm, vua Đức Tông phong Triệu Xương sang làm
An Nam đô hộ; Xương sang đến nơi, trước hết sai Sứ đem nghi vật dụ An; An sửa
sang nghi vệ, đem quân nghênh hàng Triệu Xương, các thân thuộc họ Phùng giải
tán hết.
Vương vừa mới mất
đã hiển linh, thường ở trong thôn dân hiện hình thành thiên xa vạn mã phi đằng
trên gia ốc, trên cổ thụ; chúng nhân trông lên thực như đám mây ngũ sắc, lại
nghe thấy ti trúc, quản huyền giao hưởng trên không trung, tiếng hô hoán, tiếng
cờ trống võng kiệu vọng lên nghe thấy phân minh giữa ban ngày. Phàm trong ấp có
tai nạn hoặc việc vui mừng thì Ấp trưởng trong đêm đã thấy có dị nhân báo cáo
trước; chúng phục là thần, lập đền phía tây Đô phủ mà phụng sự, phàm có việc trộm
cướp, việc hồ nghi thì đại thể tề tựu trước đền mà bái yết thần, vào trong đền
mà minh thệ, lập tức thấy họa phúc. Nhà thương mại đem lễ đến đền cầu lợi hậu đều
có linh ứng; thôn dân gặp phải mưa dầm hay đại hạn; cầu đảo liền được như ý. Mỗi
năm xã đến ngày tạ lễ, người đến đông như rừng như biển, bánh xe dấu ngựa đầy
đường; miếu mạo nguy nga, hương đèn chẳng dứt.
Thời Ngô Tiên
chúa kiến quốc, Bắc binh nhập khấu, Tiên chúa đã lo, nửa đêm hốt nhiên mộng thấy
một ông già đầu bạc, y quan nghiêm nhã, tay cầm quạt lông, chống gậy trúc, tự
xưng tính danh rằng:
Ta lãnh thần
binh vạn đội, sẵn sàng mai phục các chỗ yếu hại, chúa công tức tốc tiến binh chống
cự, đã có âm trợ, chớ lo phiền chi cả.
Đến khi tiến
binh trên Bạch Đằng, quả thấy trên không có tiếng xe ngựa, trận ấy quả được đại
tiệp; tiên chúa lấy làm lạ, chiếu kiến lập miếu điện, trang nghiêm có từng hơn
xưa, lại sắm thêm quạt lông, cờ hòang đạo, chiên đồng, trống đại, rồi làm lễ
thái lao, con hát đến làm lễ tạ; lịch triều theo đó dần dần thành ra cổ lễ.
Hoàng triều niên
hiệu Trùng hưng năm đầu, sắc phong Phu Hựu Đại Vương. Năm thứ bốn mươi, gia
thêm hai chữ Chương Tín, Năm Hưng Long thứ hai mươi, gia phong hai chữ Sùng
Nghĩa, đến bây giờ anh uy càng thịnh, hương lửa không ngớt vậy”.
Ngoài việc cung cấp thông tin về nhân vật Phùng Hưng
cũng như sự kiện người An Nam tấn công đô hộ phủ năm 791, sách còn cho biết những
thông tin này được ghi chép trong cuốn sách có tên là: Giao Châu ký của Triệu vương.
Trước hết xin đưa ra nhận xét của Lê Hữu Mục về cuốn
sách Việt điện u linh tập:
“Nội dung của Việt
Điện U Linh chỉ gồm 27 chuyện chia ra 3 phần như sau:
- Lịch Đại Đế
Vương (6 chuyện): Sĩ Nhiếp; Phùng Hưng; Triệu Việt Vương, Lý Nam Đế; Thần xã tắc;
Hai Bà Trưng; Mỵ Ê.
- Lịch Đại Phụ
Thần (11 chuyện): Lý Hoảng; Lý Ông Trọng; Lý Thường Kiệt; Tô Lịch; Phạm Cự Lượng;
Lê Phụng Hiểu; Mục Thận; Trương Hống và Trương Hát; Lý Phục Man; Lý Đô Uý; Cao
Lỗ.
- Hạo Khí Anh
Linh (10 chuyện): Hậu Thổ Phu nhân; Thần Đồng Cổ; Thần Long Độ; Thần Khai
Nguyên; Thần Phù Đổng; Sơn Tinh Và Thuỷ Tinh; Thần Đằng Châu; Thần Bạch Hạc; Thần
Hải Thanh; Nam Hải Long Vương Quân”. Và
“Trong 27 chuyện
được coi là của ông, 8 chuyện đã không ghi xuất xứ, và ta có thể chắc rằng 8
chuyện ấy là do sự tìm kiếm riêng của tác giả; 19 chuyện còn lại đã được ghi xuất
xứ rõ ràng như sau:
- Theo tục truyền:
chuyện 20 và 27
- Theo Tam Quốc
Chí: chuyện 1
- Theo Giao Châu
Ký của Triệu Xương: chuyện 2, 10, 25.
- Giao Châu Ký của
Tăng Cổn: chuyện 23
- Sử Ký: chuyện
5, 10, 11, 13
- Sử Ký của Đỗ
Thiện: chuyện 14, 15, 17, 24
- Báo Cực Truyện:
chuyện 1, 10, 18, 19, 22
- Giao Chỉ Ký:
chuyện 17 (dẫn trong Sử Ký của Đỗ Thiện)”. Và
“Để có một ý niệm rõ ràng về cách dùng tài liệu của
Lý Tế Xuyên ta thử duyệt qua những tác phẩm lịch sử mà tác giả đã dẫn chứng. Cuốn
Tam Quốc Chí đã được dùng để viết chuyện Sĩ Nhiếp (lược một đoạn). Lý Tế Xuyên
đã gần như trích hẳn đoạn nói về Sĩ Nhiếp; đoạn nói về sự hiển linh của Sĩ Nhiếp
lại được lấy trong Báo Cực Truyện; như vậy, Lý Tế Xuyên cho ta biết rõ ràng rằng
chuyện Sĩ Nhiếp của ông là do hai nguồn tài liệu tạo nên; sự thẳng thắn ấy làm
cho chúng ta không hoài nghi sự trung thực của ông (lược một đoạn). Chính giáo
sư Durand rất khe khắt với Lý Tế Xuyên cũng đã công nhận bản văn của tác giả là
bản Ngô Chí được sao lại và biến chế thay đổi đi; như thế, ta có thể thẳng thắn
công nhận rằng Lý Tế Xuyên đã sáng tác trong khuôn khổ của bản Ngô Chí, đã triệt
để tôn trọng tài liệu và chỉ thêm bớt khi nào cảm thấy cần thiết; cách sử dụng
tài liệu theo lối này nằm trong tập quán chung của các nhà văn xưa”.
Tuy
là cuốn sách viết về những chuyện thần linh nhưng Việt điện u linh tập lại chép
dẫn soạn một cách trung thực từ nguồn tài liệu. Trong đó quan trọng là 2 sách
Giao Châu ký của Triệu công và Giao Châu ký của Tăng công.
Theo Phạm Lê Huy
(Trường Đại học Khoa học xã hội và nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội) trong Một
số thủ lĩnh An Nam thời thuộc Đường thì: “Khác với một số truyện sử dụng nguồn
tư liệu thần phả, Lý Tế Xuyên đã viết truyện Bố Cái Đại Vương trên cơ sở một
nguồn tài liệu là Triệu công Giao châu ký hoặc Triệu vương Giao châu ký”.
Theo
Nguyễn Thị Hoàng Quý (Viện nghiên cứu Hán Nôm) trong Một phát hiện về quả chuông
“Phụng Thái Thanh Từ” việc tìm thấy quả chuông Phụng Thái Thanh Từ đúc năm Mậu
Dần 1818 có ghi chép về bài “Bạch Hạc Thông Thánh quán chung ký tương truyền là
của Hứa Tông Đạo, một người Tống sang Việt Nam lập nghiệp vào đời Trần
Thái Tông (năm 1225-1258) đã từng được Trần Nhật Duật thu dùng làm môn khách”.
Nội dung của Bạch Hạc Thông Thánh quán chung ký như
sau:
“Theo sách Giao
Châu ký của Triệu Công có nói: Giữa niên hiệu Vĩnh Huy đời Đường, Nguyễn Thường
Minh làm Đô đốc Phong Châu, thấy xứ Bạch Hạc đất đai nghìn dặm, sông núi như
đai vạt bao quanh, bèn xây quán Thông Thánh, đặt tượng Tam thanh để hành một cảnh
quan kỳ vĩ. Lại riêng mở hai giải vũ trước sau, định tô tượng thần hộ vệ quán,
nhưng chưa rõ vị nào linh thiêng, nên đốt hương khấn tàng: "Các vị thần được
thờ ở đây, nếu có vị nào linh thiêng, xin sớm hiện hình cho tôi biết để tạc tượng".
Đêm đến thấy hai dị nhân, dáng mạo cổ quái, đều đem bộ thuộc, mắng mỏ chen lấn
nhau đến chỗ Thường Minh, tranh được ở quán trước. Thường Minh hỏi họ:
"Các ngài tên là gì?" Một người xưng là thổ Lệnh, một người xưng là
thạch Khanh. thường Minh nói: "Xin thử tài nghệ. Ai thắng sẽ được ở trước".
Thạch Khanh nhảy một bước đến bên kia sông, bỗng thấy Thổ Lệnh đã đứng bên kia
sông rồi Thạch Khanh lại nhảy một bước sang bên này sông, lại thấy Thổ Lệnh đã
đứng bên này trước. Vì vậy Thổ Lệnh được ở đây. Đó tức là vị thần mà ngày nay
được phong sắc: Vũ phụ trung dực Uy hiển vương.
Từ đời Đường đến
nay, đã hơn 1000 năm. Nơi đây đất quí, thần thiêng, cầu đảo được báo ứng, xưa
nay đều như vậy. Trước đây vào triều Trần, đất nước thái bình, bốn phương theo
giáo hóa. Lúc đó có đạo sĩ Hứa Tông Đạo người Hải Đàn, hương Thái Bình, huyện
Phúc Thanh nước đại Tống, cùng người trong tông phái cao hứng đáp thuyền đến nước
Nam. Bấy giờ, Khai Quốc vương có lòng mộ đao, tính thường coi trọng người tống,
nên đã lưu Tông Đạo ở trong nhà, mong mở mang đạo giáo. Cuối mùa đông năm Giáp
Thân (1284) giặc Bắc đến xâm lược, ngày Thượng nguyên năm Ất Dậu (1825) Khai Quốc
vương cùng Hứa Tông Đạo cắt tóc cùng với thần linh ăn thề trên sông Bạch Hạc rằn
sẽ đem hết lòng trung báo ơn vua. Rồi một mình đem quân kỵ tả hữu tìm đánh giặc
Thát. Trung tuần tháng 5, quân Thát thua chạy. Đó đều nhờ vào phúc ấm của thần
vương vậy. tông Đạo vì vậy kính trọng uy linh của thần mà dốc lòng làm việc thiện.
Mùa xuân năm Tân Dậu, Hứa Tông Đạo đúc một quả chuông lớn cúng vào đền thiêng để
tỏ lòng cung kính”.
Sách Khâm định Việt sử thông giám cương mục chép: “Theo
sách An Nam kỷ yếu, bấy giờ Giao Châu chưa yên, Triệu Xương đến nơi, vỗ về phủ
dụ, lòng dân mới yên. Triệu Xương sai sứ đến dụ Phùng An, Phùng An đem quân ra
hàng, Triệu Xương được gia phong làm kinh lược chiêu thảo xử trí sứ, Triệu
Xương đắp thêm La Thành, đi thăm khắp nơi núi sông danh thắng, cổ tích, đền miếu
ở các đô quận, chép làm sách Phủ chí”.
Từ
đây một giả thuyết đã được bàn luận. Một số thủ lĩnh An Nam thời thuộc Đường của
Phạm Lê Huy viết: “Sách Giao châu ký của ông họ Triệu (Triệu công) không còn,
nhưng qua bài minh trên quả chuông Bạch Hạc Thông thiên quán do Hứa Tông Đạo soạn
năm Đại Khánh thứ 8 (1239), chúng ta biết được rằng Triệu công Giao châu ký là
một cuốn sách khá phổ biến vào thời Trần. Về tác giả Triệu công, Lê Hữu Mục đã
đưa ra một giả thuyết rất đáng chú ý. Căn cứ vào ghi chép sau của Việt sử thông
giám cương mục (VSTGCM) (thực tế là trích lại từ An Nam kỷ yếu hay An Nam chí của
Cao Hùng Trưng) Lê Hữu Mục cho rằng Triệu công Giao Châu ký chính là sách Phủ
chí do An Nam Đô hộ Triệu Xương soạn. Chúng tôi cũng nghiêng về giả thuyết của
Lê Hữu Mục vì:
Thứ
nhất,
việc coi Triệu Xương là tác giả Triệu công Giao Châu ký về mặt niên đại không
mâu thuẫn với những nội dung mà chúng ta biết được về tài liệu này. Hiện tại,
chúng ta biết được rằng Triệu công Giao châu ký viết về các sự kiện xảy ra dưới
các niên hiệu Vĩnh Huy (truyện thần Bạch Hạc – Trung dục vũ phụ uy linh vương,
VĐUL; chuông Bạch Hạc thông thiên quán), Trinh Nguyên (truyện Bố Cái đại vương,
VĐUL) nhà Đường, tức là trước hoặc cùng thời với Triệu Xương.
Thứ hai,
trong điều kiện tư liệu hiện nay, chúng ta chỉ xác định được duy nhất một nhân
vật họ Triệu có sách viết về Giao châu là Triệu Xương.
Thứ
ba,
có thể tham khảo so sánh thêm với trường hợp Tăng công Giao châu ký. Ngoài Triệu
công Giao châu ký, trong VĐUL, Lý Tế Xuyên còn sử dụng sách Giao châu ký của
Tăng công. Trong trường hợp này, có thể xác định chính xác Tăng công là An Nam
Đô hộ Tăng Cổn, nhờ Việt sử lược có chép Tăng Cổn soạn 1 thiên Giao châu ký.
Trong trường hợp này, sách Giao châu ký của Tăng Cổn cũng xuất phát từ một tài
liệu thuộc dạng chí. Trong Vân đài loại ngữ, Lê Quí Đôn trích dẫn sách Phiên
ngung tạp ký của Trịnh Hùng đời Đường (hiện đã mất) cho biết Tăng Cổn là tác giả
của sách Việt chí”. Và
“Tóm lại, mặc dù
chưa thể khẳng định rõ ràng nhưng giả thuyết của Lê Hữu Mục không phải là không
có cơ sở. Như chúng ta đã biết, sau khi Cao Chính Bình chết bệnh vào tháng 4
năm Trinh Nguyên 7 (791), tháng 7 cùng năm, Triệu Xương được bổ nhiệm làm An
Nam Đô hộ, Kinh lược Chiêu thảo sứ và chính là người trực tiếp tiến hành chiêu
hàng Phùng An. Do đó, nếu quả thực Triệu công Giao Châu ký là sách do Triệu
Xương viết, thì VĐUL đã căn cứ vào một nguồn tài liệu đương thời có tính tin cậy
cao để viết về cuộc khởi nghĩa Phùng Hưng. Nếu bóc tách được nội dung của Triệu
công Giao châu ký từ VĐUL, chúng ta sẽ có được những thông tin có giá trị về khởi
nghĩa Phùng Hưng”.
Tiểu
kết, chúng ta có thể rút ra vài kết luận như sau:
- Khâm định Việt
sử thông giám cương mục khi ghi chép về Phùng Hưng, đã tham khảo Đại Việt sử ký
toàn thư và An Nam chí nguyên.
- Đại Việt sử ký
toàn thư của Ngô Sĩ Liên khi ghi chép về Phùng Hưng (có thể) đã tham khảo Việt điện
u linh tập.
- Việt điện u
linh tập do Lý Tế Xuyên viết đã tham khảo trực tiếp từ sách Giao Châu ký của
Triệu công và Giao Châu ký của Tăng công.
- Sách Giao Châu
ký của Triệu công phổ biến vào thời điểm Việt điện u linh tập được viết và việc
dẫn nguồn tài liệu của Lý Tế Xuyên là (có thể) tin cậy.
- Khâm định Việt
sử thông giám cương mục dẫn An Nam kỷ yếu cho biết: Triệu Xương viết Phủ chí; Tăng
Cổn viết Việt chí.
[Khâm định Việt
sử thông giám cương mục chép: “Năm Canh Tí (880). (Đường, năm Quảng Minh thứ
1). Tháng 3, mùa xuân. Quân phủ đô hộ nổi loạn. Tiết độ sứ Tăng Cổn phủ dụ được
yên.
Theo sách An Nam
kỷ yếu, trước kia, Tăng Cổn làm chức tiểu hiệu dưới quyền Cao Biền, Tăng Cổn là
người giỏi về chính trị. Khoảng giữa niên hiệu Kiền Phù (874-879), nhà Đường
dùng Tăng Cổn thay Cao Tầm làm tiết độ sứ. Năm này (880) quân trong phủ nổi loạn,
các thuộc hạ xin Tăng Cổn rút ra ngoài thành để lánh nạn. Cổn không nghe, đem
điều uy đức ra phủ dụ: quân nổi loạn yên ngay, đến quy phụ với Cổn. Cổn không
nhắc hỏi đến lỗi của họ nữa. Vì thế, trong số quân các đạo đi thú ở Ung Quản hễ
ai theo về với Cổn thì đều được dung nạp cả. Tăng Cổn là người có tiếng khéo vỗ
về cai trị nhân dân, được người Giao Châu gọi là "ông thượng Tăng"
(Tăng thượng thư). Cổn có soạn sách Giao Châu ký lưu hành ở đời. Cổn làm việc ở
trấn 14 năm. Đến đời Đường Chiêu Tông, năm Cảnh Phúc thứ 1 (892), Chu Toàn Dục
mới sang thay Cổn làm tiết độ sứ.
Lời cẩn án: Sử
cũ chép quân trong phủ nổi loạn, tiết độ sứ Tăng Cổn trốn ra ngoài thành. Nay
xét Tăng Cổn là người có tiếng về chính trị, e Sử cũ chép lầm chăng, nên nay
căn cứ vào sách An Nam kỷ yếu của Cao Hùng Trưng mà cải chính lại”.
Việt điện u linh
tập, Chuyện Sơn Tinh và Thuỷ Tinh chép: “Xét Giao Châu Ký của Tăng Công chép rằng:
Vương là Sơn Tinh cùng với Thuỷ Tinh làm bạn rất thân thiết, ở ẩn tại động Gia
Ninh, châu Phong”.
Một số thủ lĩnh
An Nam thời thuộc đường viết: “Nhờ Việt sử lược có chép Tăng Cổn soạn 1 thiên
Giao châu ký. Trong trường hợp này, sách Giao châu ký của Tăng Cổn cũng xuất
phát từ một tài liệu thuộc dạng chí. Trong Vân đài loại ngữ, Lê Quí Đôn trích dẫn
sách Phiên ngung tạp ký của Trịnh Hùng đời Đường (hiện đã mất) cho biết Tăng Cổn
là tác giả của sách Việt chí”.
Từ đó “có thể
xác định chính xác Tăng công là An Nam Đô hộ Tăng Cổn” vì thế sách Giao Châu ký
của Tăng công chính do Tăng Cổn soạn].
- Giả thuyết rằng:
Sách Giao Châu ký của Triệu công chính là sách Phủ chí của Triệu Xương.
Vậy Bố Cái đại vương
Phùng Hưng người Đường Lâm chính là thủ lĩnh của người An Nam tấn công đô hộ phủ
năm 791.
2.
Đại Việt sử lược (Việt sử lược) chép: “Tăng Cổn. Đời vua Hy Tông (874-888) nhà
Đường, Tăng Cổn lên thay Cao Tầm làm Tiết độ sứ. Vì một lòng vỗ về cùng chăm
sóc đến việc sinh trưởng trong dân mà nổi tiếng. Người trong châu gọi ông là
Tăng Thượng Thư. Ông có soạn quyển "Giao Châu Ký" một thiên”.
Việt
sử lược hiện còn nhiều tranh luận về tác giả cũng như thời điểm sách được viết,
dẫu vậy có thế xếp sách vào cùng thời với Việt điện u linh tập. Trong trường hợp
này có thể đặt ra 2 khả năng: Thứ nhất, Tăng công chính là Tăng Cổn. Sách Giao
Châu ký của Tăng công chính là sách Giao Châu ký mà Tăng Cổn soạn một thiên. Thứ
hai, Tăng công không phải là Tăng Cổn. Thì sách Giao Châu ký của Tăng công không
phải là Giao Châu ký mà Tăng Cổn soạn một thiên, thậm chí Tăng Cổn không soạn
Giao Châu ký. Khi đó lời giải thích hợp lý là: Tác giả khi soạn Việt sử lược đã
tham khảo Việt điện u linh tập hoặc các tài liệu tương tự có ghi chép về sách
Giao Châu ký của Tăng công, từ đó suy đoán rằng: Tăng công chính là Tăng Cổn.
Do đó mà trong phần chép về tiểu sử của Tăng Cổn đã viết thêm là: Tăng Cổn có
soạn sách Giao Châu ký một thiên.
Chúng ta có thể
mở rộng để xét thêm trường hợp sách An Nam chí nguyên của Cao Hùng Trưng. Không
loại trừ khả năng Cao Hùng Trưng đã tham khảo các tài liệu như Việt điện u linh
tập, Việt sử lược từ đó suy luận Tăng công là Tăng Cổn nên khi viết về tiểu sử
của vị quan này liền thêm vào thông tin ông
có soạn sách Giao Châu ký.
Sách
Vân Đài loại ngữ do Lê Quý Đôn soạn hoàn thành năm 1773 có dẫn sách Phiên Ngung
tạp ký của Trịnh Hùng đời Đường (hiện đã mất) cho biết Tăng Cổn có soạn sách Việt
chí. Đến đây chúng ta đặt câu hỏi: Tác giả của An Nam kỷ yếu và Việt sử lược
khi chép về Tăng Cổn có tham khảo Phiên Ngung tạp ký không? Nếu như Việt sử lược
hoặc An Nam kỷ yếu có tham khảo Phiên Ngung tạp ký thì sách Việt chí có khả năng
là Giao Châu ký của Tăng công. Ngược lại, nếu An Nam chí nguyên và Đại Việt sử
lược không tham khảo Phiên Ngung tạp ký thì chưa thể kết luận gì về mối quan hệ
giữa Việt chí và Giao Châu ký của Tăng công.
Mục đích của chúng
ta là xác định sách Giao Châu ký của Triệu công, nhưng để thẩm định sách này chúng
ta tham khảo sách Giao Châu ký của Tăng công tuy nhiên việc xem xét sách ấy lại
không cho chúng ta kết luận vững chắc như Phạm Lê Huy đưa ra. Việc tham khảo tác
giả sách Giao Châu ký của Tăng công chắc chắn là Tăng Côn cho phép chúng ta đặt
giả thuyết tác giả sách Giao Châu ký của Triệu công là Triệu Xương nhưng như đã
thấy ở trên, việc Tăng công là Tăng Cổn đã không còn chắc chắn như chúng ta
mong đợi.
Khâm
định Việt sử cương giám thông mục dẫn sách An Nam kỷ yếu cho biết: Triệu Xương
có soạn sách Phủ chí. Vậy An Nam kỷ yếu dựa vào nguồn tại liệu nào để xác định
như vậy? Trong khi Đường thư, truyện Triệu Xương không thấy nói ông có soạn sách.
Lê Hữu Mục cho rằng: Sách Triệu Xương soạn thực tế chỉ là những ghi chép, chưa
được ấn hành, nên sử gia nhà Đường không biết mà ghi chép. Liệu rằng: Cao Hùng
Trưng có tham khảo Việt điện u linh tập hoặc các tài liệu tương tự để từ đó suy
luận Giao Châu ký của Triệu công là sách của Triệu Xương? Hoặc Cao Hùng Trưng căn
cứ trên nguồn tại liệu độc lập với Việt điện u linh tập để ghi chép về sách Phủ
chí, thì kể cả trong trường hợp này cũng không thể khẳng định chắc chắn rằng: Sách
Phủ chí là sách Giao Châu ký của Triệu công hay tác giả sách Giao Châu ký của
Triệu công là Triệu Xương và việc tương tự cũng xảy ra đối với trường hợp của họ
Tăng. Chúng ta thấy rằng: Tên gọi của sách có sự sai khác! Trong trường hợp của
họ Tăng, căn cứ vào tên sách thì có khả năng An Nam chí nguyên soạn dựa trên Việt
sử lược hơn là Phiên Ngung tạp ký, tất nhiên đây là một căn cứ không vững chắc
vì tên sách có thể thay đổi theo thời gian và không gian.
Tiểu
kết, chúng ta có thể rút ra vài kết luận như sau:
- Việt sử lược
cho biết Tăng Cổn có soạn sách Giao Châu ký một thiên. Khâm định Việt sử thông
giám cương mục dẫn An Nam chí nguyện cho biết Tăng Cổn soạn sách Giao Châu ký.
Tuy nhiên Việt sử lược và An Nam kỷ yếu có thể đã sử dụng phương pháp suy luận
trên căn cứ sự tồn tại của sách Giao Châu ký của Tăng công hoặc có thể đã tham
khảo nguồn tài liệu khác, có khả năng là Phiên Ngung tạp ký. Ngay cả khi Tăng Cổn
có soạn sách Việt chí thì cũng chưa chắc chắn sách này chính là Giao Châu ký của
Tăng công. Do đó chưa có cơ sở chắc chắn rằng: Tăng Cổn là tác giả sách Giao Châu
ký của Tăng công.
-
Giả như Tăng Cổn soạn sách Giao Châu ký của Tăng công thì cũng không thể khẳng định
tương tự rằng: Giao Châu ký của Triệu công là sách do Triệu Xương soạn. Dù An
Nam kỷ yếu có đúng khi chép Triệu Xương soạn Phủ chí.
- Như vậy, tất cả
những gì chúng ta có cũng chỉ có thể dừng lại ở giả thuyết của Lê Hữu Mục tuy
nhiên tôi lại đưa ra một giả thuyết khác:
-
Giả thuyết rằng: Xuất hiện những câu chuyện truyền miệng, rồi ai đó thu thập
ghi chép lại những câu chuyện ấy, những sách ấy bao gồm nhưng không giới hạn: Báo
cực truyện, Giao Châu ký của Triệu công, Giao Châu ký của Tăng công. Trong dòng
chảy ấy có Lĩnh Nam chích quái và Việt điện u linh tập. Khác với những sách khác,
Việt điện u linh tập với cách viết có thiên hướng khoa học đã gây được sự chú ý,
như kỳ thực nó là sách soạn lại từ nguồn tài liệu và những cuốn sách khác. Vào
thời điểm giao thời giữa không khí phật giáo và nho giáo Đại Việt sử ký của Lê
Văn Hưu và Đại Việt sử lược ra đời. Việt sử lược căn cứ vào Phiên Ngung tạp ký
của Trịnh Hùng hoặc (có thể là) Việt điện u linh tập hoặc các tài liệu tương tự
(khả năng này xảy ra lớn hơn) để khi viết về Tăng Cổn, đã quả quyết chép (suy
luận) rằng: Thượng thư Tăng soạn Giao Châu ký. Đến khi Cao Hùng Trưng soạn An
Nam kỷ yếu thì cũng thực hiện tương tự như tác giả của Đại Việt sử lược từng làm
và cũng phán đoán rằng: Tác giả Giao Châu ký của Triệu công là Triệu Xương (nhưng
không chắc chắn) nên khi viết tiểu sử, mới chép là Triệu Xương có soạn sách -
Phủ chí (chứ không phải Giao Châu ký).
3.
Chúng ta đã luận bàn xem Triệu Xương có phải là tác giả sách Giao Châu ký của
Triệu công, tuy nhiên chưa thể có kết luận cuối cùng nào. Việc Triệu Xương có
hay không là tác giả của sách Giao Châu ký của Triệu công có vai trò quan trọng.
Nó trực tiếp xác nhận truyện Bố Cái đại vương Phùng Hưng chép trong Việt điện u
linh tập là có thật.
Xét truyện Bố Cái
Đại Vương Phùng Hưng trong Việt điện u linh tập của Lý Tế Xuyên, chúng ta thấy
rằng: Cũng giống như phần lớn các truyện khác trong sách, truyện có bố cục gồm
2 phần lớn là: Phần tiểu sử về thần và Phần linh ứng.
Phần
tiểu sử, trước hết sách thường dẫn nguồn tài liệu, sau đó trên căn cứ của các
nguồn tài liệu sách dẫn về tiểu sử của các thần. Phần linh ứng, sách viết về việc
hiển linh của các thần, sau cùng là phần xây dựng, tu sửa đền miếu, sắc phong
cho các thần.
Vì chúng ta chưa thể khẳng định về
tác giả sách Giao Châu ký của Triệu công, nên chúng ta cũng không thể chắc chắn
rằng: Trong truyện Bố Cái đại vương Phùng Hưng phần nào dẫn từ Giao Châu ký của
Triệu công, phần nào do Lý Tế Xuyên thu thập. Giả như Triệu Xương là tác giả của
Giao Châu ký của Triệu công thì khả năng từ đoạn “Thời Ngô chủ kiến quốc” đến hết
truyện do Lý Tế Xuyên thu thập (viết). Còn từ đó trở về đầu truyện là dẫn từ
Giao Châu ký của Triệu Xương. Chúng ta có thể khẳng định như vậy bởi căn cứ vào
truyện Thần Bạch Hạc thì thấy sách Giao Châu ký của Triệu công cũng là sách chép
truyện quái.
Về truyện Thần Bạch Hạc có thể xác định
rất rõ ràng đâu là phần thuộc về sách Giao Châu ký của Triệu công. Hiện nay
truyện được biết đến từ 3 nguồn tài liệu là bài Bạch Hạc thông thiên quán của Hứa
Tông Đạo, Việt điện u linh tập của Lý Tế Xuyên và Lĩnh Nam chích quái của Trần
Thế Pháp. Cả 3 sách này đều dẫn Giao Châu ký của Triệu công và đều dẫn giống
nhau từ đầu truyện cho đến đoạn “vì thế Thổ Lệnh đứng ở đây”. Trong khi đó truyện
Phùng Hưng, hiện mới chỉ biết được có mỗi sách Việt điện u linh tập dẫn lại
Giao Châu ký của Triệu công, nên không thể so sánh đối chiếu được do đó buộc chúng
ta phải xem xét kỹ văn cảnh. Giả như sách này của Triệu Xương thì căn cứ vào văn
cảnh thì ít nhất là từ đoạn “An lên kế vị được hai năm” trở về sau là có sự can
thiệp của người đời sau vào văn bản gốc (của Triệu Xương). Tất nhiên đó không
nhất thiết phải là Lý Tế Xuyên, nhưng chúng ta có thể biết ít nhất một người có
thể làm việc đó. Dẫu không thể biết được văn bản gốc sách Giao Châu ký của Triệu
công nhưng căn cứ vào Việt điện u linh tập chúng ta có thể đặt giới hạn cho văn
bản này. Hẹp nhất thì văn bản dừng ở đoạn “các thân tộc họ Phùng giải tán hết”,
rộng nhất thì thêm chi tiết, Phùng Hưng chết, nhân dân tôn kính lập đền thờ, Bố
Cái rất thiêng thường hay hiển linh.
Với giới hạn này chúng ta thấy được
sự khác nhau căn bản giữa truyện về Phùng Hưng trong sách Giao Châu ký của Triệu
Xương (Giả sử Triệu công là Triệu Xương) với sách Việt điện u linh tập, đó là: Truyện
của Triệu Xương lấy sự kiện lịch sử làm trọng tâm, chuyện linh ứng của thần chỉ
là phụ hoạ, trong khi truyện trong Việt điện u linh tập (và có thể là cả trong
Giao Châu ký của Triệu công mà tác giả không phải là Triệu Xương) lại lấy việc
linh ứng của thần là cốt lõi, còn tiểu sử của thần chỉ là dẫn nhập.
Chúng ta sẽ ứng
xử với nhận xét này như thế nào? Nếu như Việt điện u linh tập viết truyện Bố Cái
đại vương Phùng Hưng dựa trên sách Giao Châu ký của Triệu Xương thì câu hỏi đặt
ra là: Một cuốn sách có giá trị tư liệu về lịch sử như Giao Châu ký được Triệu
Xương viết về một sự kiện quan trọng vẫn được lưu hành vào thời Trần mà các tác
giả (đương thời) của Đại Việt sử ký, Việt sử lược, An Nam chí lược lại không trích
dẫn, tham khảo? Vì Đại Việt sử ký của Lê Văn Hưu đã mất, song qua Đại Việt sử ký
toàn thư của Ngô Sĩ Liên chúng ta biết được rằng: Ngô Sĩ Liên đã soạn sử trên cơ
sở Đại Việt sử ký. Và không thấy Lê Văn Hưu nhắc tới Phùng Hưng cũng như sách
Giao Châu ký của Triệu công. Việc Ngô Sĩ Liên khi viết về Phùng Hưng (phán đoán)
phải dẫn Việt điện u linh tập (sử viết về Phùng Hưng trong Đại Việt sử ký toàn
thư giống với truyện về Bố Cái đại vương trong Việt điện u linh tập) chứng tỏ Đại
Việt sử ký không chép về Bố Cái đại vương. Việt sử lược dẫu có nhiều thăng trầm
lưu lạc nhưng may mắn vẫn còn lưu hành, sách này cũng không có ghi chép gì về
nhân vật Phùng Hưng.
Các
cuốn sách này không chép về Bố Cái đại vương Phùng Hưng khó có thể nói là do tác
giả của chúng không biết tới sách Giao Châu ký của Triệu công, khi cuốn sách vẫn
còn tồn tại cùng thời với các tác giả và thậm chí còn được Việt điện u linh tập
tham khảo, trích dẫn. Vậy đâu là lý do? Rõ ràng, vấn đề nằm ở bản thân sách
Giao Châu ký của Triệu công! Qua bài Bạch Hạc thông thiên quán tương truyền của
Hứa Tông Đạo khắc trên chuông năm 1239 (thời điểm sớm nhất biết tới sách Giao
Châu ký của Triệu công) và tính trung thực của Lý Tế Xuyên có thể khẳng định: Tồn
tại cuốn Giao Châu ký của Triệu công. Như vậy việc các tác giả cùng thời không
chép về Phùng Hưng là do bản thân truyện Bố Cái đại vương trong sách Giao Châu
ký của Triệu công. Lĩnh Nam chích quái cũng có dẫn Giao Châu ký của Triệu công
nhưng không phải trong phần chính bản mà trong phần phụ bản, truyện Thần Bạch Hạc
trong Lĩnh Nam chích quái được người đời sau thêm vào (có thể đã tham khảo từ các
nguồn tương tự như Bạch Hạc thông thiên quán hay Việt điện u linh tập chứ không
phải trực tiếp từ Giao Châu ký của Triệu công). Trong phần chính bản (22 truyện)
cũng không thấy có truyện về Bố Cái đại vương, truyện về Phùng Hưng chỉ được
người đời sau thêm vào trong phần phụ bản.
Như vậy, các sách
chép về quái cho tới sử cho tới nửa quái nửa sử cũng đều không có ghi chép gì về
Phùng Hưng trong mối liên quan với Giao Châu ký của Triệu công. Tất cả, dẫn chúng
ta tới kết luận rằng: Đối với sử thì sách Giao Châu ký của Triệu công (được Việt
điện u linh tập dẫn làm nguồn tham khảo) ít tính sử mà nhiều tính quái, đối với
quái (cụ thể tiêu biểu là Lĩnh Nam chích quái) thì sách ấy lại ít tính quái hay
tính quái chưa tầm phổ quát (22 truyện trong Lĩnh Nam chích quái toàn là những
truyện mang tầm tộc truyền). Giao Châu ký của Triệu công về tính quái có khi xếp
cùng với Báo cực truyện! Nhưng khi Giao Châu ký của Triệu công được Lý Tế Xuyên
sử dụng để viết truyện Bố Cái đại vương Phùng Hưng thì lại gây được sự chú ý. Đối
với sử thì được sử dụng để soạn Đại Việt sử ký toàn thư, đối với quái thì Lĩnh
Nam chích quái phải chép lại. Điều này chứng tỏ Lý Tế Xuyên đã can thiệp vào văn
bản của Giao Châu ký của Triệu công mà sáng tác nên Bố Cái đại vương truyện!
Truyện Phùng Hưng mang tính sử rất nhiều, dù không phải là Ngô Sĩ Liên thì bất
kỳ ai khi tham khảo truyện này cũng bối rối trước khối lượng sử liệu. Như vậy,
sử liệu về Bố Cái đại vương trong Giao Châu ký của Triệu công là không đáng kể,
khiến Lê Văn Hưu, Lê Tắc, tác giả của Việt sử lược và thậm chí là cả tác giả của
Sử ký là Đỗ Thiên cũng không bận tâm. Nhưng thông tin về Phùng Hưng trong Việt điện
u linh tập khiến cho không chỉ Ngô Sĩ Liên mà cả chúng ta, cũng phải quan tâm.
Một sự thay đổi đột ngột về khối lượng thông tin ấy (nếu có) diễn ra phải sau
thời của Lê Văn Hưu và tác giả của Việt sử lược nhưng muộn nhất là khi Việt điện
u linh tập xuất hiện, chúng ta có thể quy kết việc can thiệp vào văn bản sách
Giao Châu ký của Triệu công cho Lý Tế Xuyên.
Lý Tế Xuyên đã dựa
vào Giao Châu ký của Triệu công và thông tin về sử, trên cơ sở đó tạo nên Phùng
Hưng như chúng ta thấy qua truyện Bố Cái đại vương trong Việt điện u linh tập.
Tiểu
kết, chúng ta có thể rút ra vài ý kiến như sau:
- Chưa có kết luận
cuối cùng về Triệu Xương có phải là tác giả sách Giao Châu ký của Triệu công.
-
Truyện trong Việt điện u linh tập có 2 phần rõ rệt là phần sử và phần quái. Qua
bài Bạch Hạc thông thiên quán (và tính trung thực của Lý Tế Xuyên) cho chúng ta
biết: Tồn tại sách Giao Châu ký của Triệu công và sách này chép về quái.
- Giống phần lớn
các truyện khác Bố Cái đại vương truyện cũng có 2 phần sử và quái. Nếu Triệu Xương
có soạn Giao Châu ký và Việt điện u linh tập tham khảo trực tiếp từ sách ấy thì
sách Giao Châu ký của Triệu Xương phải gây được sự chú ý của tác giả các sách:
An Nam chí lược, Đại Việt sử lược, Việt sử lược và có thể cả Sử ký.
-
Nhưng thực tế không tìm thấy dấu vết nào của Giao Châu ký của Triệu công trong
các sách đã kể, đồng thời truyện Bố Cái đại vương trong Việt điện u linh tập lại
gây được sự chú ý của các sử gia đời sau. Từ đó phán đoán rằng: Đã có sự thay đổi
(can thiệp vào văn bản) khi Lý Tế Xuyên sử dụng Giao Châu ký của Triệu công để
viết truyện Bố Cái đại vương trong Việt điện u linh tập.
- Giả thuyết: Lý
Tế Xuyên sử dụng Giao Châu ký của Triệu công (sách vốn chép rất ít thông tin về
Phùng Hưng); tài liệu dã sử và những thông tin lịch sử (trong các sách sử) để tạo
soạn ra cuộc đời của nhân vật Phùng Hưng mà chúng ta thấy trong tác phẩm của ông.
Như vậy: Chúng ta không thể kết luận
gì về tác giả sách Giao Châu ký của Triệu công, cũng như không chắc chắn Triệu
Xương có soạn sách nào không? Chúng ta cũng có thể đặt giả thuyết rằng: Lý Tế
Xuyên đã tạo soạn ra cuộc đời nhân vật Phùng Hưng trong tác phẩm của ông. Nếu vậy
công việc của chúng ta bây giờ là xác định nhân vật Phùng Hưng lịch sử (nếu tồn
tại) cũng như vai trò của ông (nếu có) trong cuộc tấn công phủ đô hộ của người
An Nam năm Trinh Nguyên thứ 7 (năm 791).
4.
Liên quan tới cuộc tấn công phủ đô hộ ở An Nam năm Trinh Nguyên thứ 7 (năm 791)
dẫn tới việc đô hộ Cao Chính Bình lo lắng mà chết, chúng ta phải nhắc tới một
nhân vật khác có tên Đỗ Anh Hàn. Sách Khâm định Việt sử thông giám cương mục; Đại
Việt sử ký toàn thư và Việt điện u linh tập đều chép: “Phùng Hưng đánh Chính
Bình mãi không được, mới dùng kế của người làng là Đỗ Anh Hàn, đem quân đến vây
phủ: Chính Bình vì lo sợ mà chết”. Như vậy theo sử Việt thì Phùng Hưng là thủ lĩnh
người An Nam tấn công phủ đô hộ, còn Đỗ Anh Hàn có thể là quân sư.
Đi
xa hơn, trong Một số thủ lĩnh An Nam thời thuộc Đường của tác giả Phạm Lê Huy
thì: “Qua những phân tích trên, chúng ta có thể có một cách giải thích khác các
nghiên cứu trước đây về Đỗ Anh Hàn. Đỗ Anh Hàn là một thủ lĩnh địa phương sống
cùng châu Đường Lâm với Phùng Hưng. Có thể Đỗ Anh Hàn đã theo về với Phùng Hưng
trong quá trình anh em họ Phùng thu phục các hương ấp xung quanh. Trong giai đoạn
đầu của cuộc khởi nghĩa Đỗ Anh Hàn đã có vị trí cao trong bộ chỉ huy cuộc khởi
nghĩa”. Như vậy Đỗ Anh Hàn vốn không phải là quân sư của Phùng Hưng, mà cũng là
một hào trưởng, một thủ lĩnh giống như Phùng Hưng. Nhưng sau theo về cùng với
Phùng Hưng. Tác giả đã tham khảo sách sử, từ đó giới thiệu chi tiết nhân vật có
tên là Đỗ Anh Sách. Man thư của Phàn Xước chép: “Thần (Phàn Xước) trộm biết, cố
An Nam tiền Tiết độ sứ Triệu Xương, sửa sang việc Giao Chỉ tổng cộng 13 năm, đến
nay vẫn để lại lòng ái ngưỡng nơi các bậc bô lão, làm cho trong cõi vô sự. Khi
đó, (Triệu Xương) lấy Đô áp nha Đỗ Anh Sách làm Chiêu thảo phó sứ, nhập viện
phán án, mỗi tháng cấp cho lương tiền 70 quan; lấy kỳ khách Trương Chu làm An
Nam Kinh lược phán quan, sau lại cử Trương Chu làm Đô hộ”. Khi giải thích việc
sử phương bắc chỉ biết tới Đỗ Anh Hàn mà không có ghi chép gì về Phùng Hưng, Phạm
Lê Huy gợi ý chúng ta tham khảo trường hợp của Đỗ Anh Sách, theo đó Đỗ Anh Sách
là quan quân dưới trướng của đô hộ Triệu Xương, Trương Chu, giả thuyết rằng: Rất
có thể Đỗ Anh Hàn cũng từng có thời gian hợp tác [tác giả dẫn thêm từ “phản”] với
chính quyền đô hộ, dó đó mà chính quyền phương bắc biết tới Đỗ Anh Hàn. Một số
thủ lĩnh An Nam thời thuộc Đường viết: “Việc các nguồn tư liệu Trung Quốc chỉ
chép về Đỗ Anh Hàn cho thấy chính quyền đô hộ biết đến Đỗ Anh Hàn nhiều hơn
Phùng Hưng. Nếu tham khảo thêm trường hợp của Đỗ Anh Sách, nhiều khả năng giống
như Đỗ Anh Sách, Đỗ Anh Hàn cũng đã có quá trình ra làm việc cho chính quyền đô
hộ. Như ta thấy, các tư liệu Trung Quốc đều viết rằng Đỗ Anh Hàn đã “phản” lại
nhà Đường”. Giải thích cho việc vì sao một thủ lĩnh được các nguồn sử liệu
Trung Quốc nhấn mạnh như Đỗ Anh Hàn lại biến mất đột ngột như vậy, tác giả dẫn
Tân Đường thư rằng: Đỗ Anh Hàn đã bị chết. Phạm Lê Huy viết: “Ít nhất là theo
Tân Đường thư, thủ lĩnh Đỗ Anh Hàn đã bị giết trong khi cuộc khởi nghĩa đang nổ
ra. Điều này tương ứng với một sự kiện ghi chép trong VĐUL. VĐUL cho biết: khi
Phùng Hưng định bao vây phủ thành đô hộ, Cao Chính Bình đã đem quân dưới trướng
tấn công lực lượng khởi nghĩa nhưng không thành công. Có lẽ Đỗ Anh Hàn đã bị giết
trong cuộc chiến đấu này”. Tuy nhiên khi xem xét có mấy điểm chúng ta cần lưu ý:
Sách Cựu Đường
thư và Tư trị thông giám không ghi chép Đỗ Anh Hàn bị giết, mà chỉ chép Cao Chính
Bình lo lắng mà chết. Thật vậy, Cựu Đường thư chép: “Mùa hạ, tháng 4 (lược 1 đoạn)
Kỷ Mùi, An Nam thủ lĩnh Đỗ Anh Hàn phản, tấn công đô hộ phủ. Đô hộ Cao Chính
Bình lo lắng mà chết”. Và Tư trị thông giám chép: “An Nam Đô hộ Cao Chính Bình
đánh thuế nặng. Mùa hạ tháng 4, bọn Quần Man tù trưởng Đỗ Anh Hàn khởi binh vây
đô hộ phủ. Chính Bình lo lắng mà chết. Quần Man nghe tin đó đều hàng”. Chỉ có Tân
Đường thư chép: “Tháng 4, An Nam thủ lĩnh Đỗ Anh Hàn phản. Giết”.
Chúng
ta chưa biết kết cục của Đỗ Anh Hàn ra làm sao nhưng theo như Hán sử thì Đỗ Anh
Hàn mới là người thủ lĩnh cầm đầu người An Nam vây, tấn công đô hộ phủ khiến
Cao Chính Bình lo lắng mà chết, chứ không phải là Phùng Hưng. Phản biện có thể đưa
ra lời giải thích của Phạm Lê Huy là: Do trước đó Đỗ Anh Hàn có thể đã từng hợp
tác với chính quyền phương bắc nên các sử gia Hán chỉ biết tới Đỗ Anh Hàn, nên
trên thực tế Phùng Hưng mới là người vây, tấn công phủ nhưng mọi sự kiện xảy ra
đều quy cho Hàn hết (nếu vậy thì Tân Đường thư chép là Hàn chết thì trên thực tế
Hưng mới là người chết). Có thật là như vậy không? Các sách Hán sử đặc biệt là
Cựu Đường thư không ghi chép gì về việc Triệu Xương dùng binh đánh nhau với Đỗ
Anh Hàn (hoặc Phùng Hưng). Việc Tân Đường thư chép là “giết” chỉ là cơ sở cho
chúng ta suy luận rằng Triệu Xương có dùng binh đánh nhau với Đỗ Anh Hàn, chứ
việc giết Đỗ Anh Hàn không nhất thiết phải dụng binh. Ngoài việc đặt câu hỏi: Tại
sao Đỗ Anh Hàn đột ngột biến mất? Chúng ta cũng cần quan tâm tới câu hỏi tưởng
chừng như đã có câu trả lời: Tại sao Phùng Hưng không được biết đến? Có đúng là
chính quyền phương bắc chỉ biết tới Đỗ Anh Hàn mà không biết tới Phùng Hưng?
Đỗ Anh Hàn và Phùng
Hưng đều là hào trưởng ở Đường Lâm, Đường Lâm thời điểm năm 791 là vùng đất nằm
dưới sự quản lý lỏng lẻo của nhà Đường (vùng châu kiểu ki mi), chính quyền quản
lý dân chúng thông qua hào trưởng địa phương với quan hệ cống nạp. Như vậy
trong trường hợp này Hào trưởng có vai trò quan trọng trong hệ thống chính quyền
và xã hội nên không có cơ sở nào để khẳng định chính quyền tại An nam đô hộ phủ
chỉ biết về Đỗ Anh Hàn mà không biết gì về Phùng Hưng. Lại thêm nếu đúng Phùng
Hưng là người vây và tấn công phủ, cũng như Phùng An nối ngôi sau bị Triệu Xương
dụ hàng thì: Trước hết Phùng Hưng gây được sự chú ý hơn rất nhiều so với Đỗ Anh
Hàn, sau cùng chính Triệu Xương chứ không phải ai khác biết rõ sự việc nhất. Điều
thú vị là: Triệu Xương không làm đô hộ ở An Nam 1 lần mà làm tới những 2 lần. Đặc
biệt khi Triệu Xương thôi chức đô hộ để trở về bắc, Triệu Xương đã được vua Đường
vời đến hỏi chuyện ở An Nam khi sự kiện Vương Quý Nguyên dùng binh đuổi Bùi Thái,
Triệu Xương còn kể rõ ràng ở tuổi ngoài 70, vua lấy làm lạ.
Khâm định Việt sử
thông giám cương mục chép: “Năm Quý Mùi (803). (Đường, năm Trinh Nguyên thứ
19). Tháng 12, nhà Đường lại cử Triệu Xương sang làm đô hộ.
Theo
Đường thư, bấy giờ Triệu Xương về triều làm tế tửu chưa được bao lâu, bộ tướng
Giao Châu đánh đuổi Bùi Thái. Đức Tông vời Triệu Xương tới để hỏi tình hình.
Triệu Xương bấy giờ đã ngoài 70 tuổi, tâu bày rõ ràng không lẫn; Đức Tông lấy
làm lạ, lại cử sang làm đô hộ. Khi tờ chiếu đến nơi, người Giao Châu cùng nhau
mừng rỡ; quân làm phản liền yên ngay”.
Vì vậy, chúng ta
hoàn toàn có cơ sở để khẳng định rằng: Nếu thực sự Phùng Hưng vây, tấn công phủ
đô hộ thì chính quyền phương bắc chắc chắn sẽ biết. Thế nhưng sử phương bắc lại
không có ghi chép gì, điều đó cho phép chúng ta suy luận: Thủ lĩnh người An Nam
tấn công phủ, khiến đô hộ Cao Chính Bình lo lắng mà chết, như Hán sử đã ghi chép
rõ ràng là Đỗ Anh Hàn chứ không phải là Phùng Hưng, tất nhiên suy luận này không
có nghĩa là phủ nhận sự tồn tại của Phùng Hưng.
Khi xem xét sách Tư trị thông giám, Tân Đường thư, Cựu
Đường thư chép về sự kiện Đỗ Anh Hàn tấn công phủ đô hộ, thì thấy rằng: Thông
tin giống nhau, không có sự việc nào mới, do đó có thể đoán rằng: Hai sách Tân
Đường thư và Tư trị thông giám đã tham khảo tài liệu từ Cựu Đường thư và không
tham khảo được nguồn tư liệu nào khác có thông tin nhiều hơn Cựu Đường thư. Tân
Đường thư, Truyện Triệu Xương chép: “Đô hộ Cao Chính Bình lo lắng chuyện đó mà
chết. Thăng Triệu Xương làm An Nam Đô hộ. Các bộ lạc Di đều quay về với triều
đình, không dám nổi dậy nữa” và Tư trị thông giám chép: “Chính Bình lo lắng mà
chết. Quần Man nghe tin đó đều hàng”. Như vậy vào tháng tư mùa hạ, Đỗ Anh Hàn tấn
công phủ, Cao Chính Bình lo lắng mà chết, Triệu Xương được thăng làm An Nam đô
hộ, các bộ lạc di đều quay về với triều đình (hàng). Chúng ta không biết các quần
man này hàng triều đình là do sau khi đánh nhau và bị thua Triệu Xương hay là bị
Triệu Xương dụ hàng. Theo văn ngữ của Tư trị thông giám thì quần man đều hàng
là do nghe tin Cao Chính Bình lo lắng mà chết, thực chất là đều hàng do nghe
tin Triệu Xương làm đô hộ. Thêm đó, khoảng tháng tư, Đỗ Anh Hàn tấn công phủ,
trong cùng năm Triệu Xương được làm đô hộ (theo Khâm định Việt sử thông giám
cương mục thì là tháng 7) như vậy thời gian là khá ngắn cho việc dụng binh của
nhà Đường từ phương bắc xuống An Nam, cũng có thể tại An Nam vẫn còn quân binh
nhà Đường, nên Triệu Xương không cần kéo quân từ bắc xuống. Việc Cao Chính Bình
lo lắng mà chết, cũng cho thấy Đỗ Anh Hàn đã vây phủ trong một thời gian, chứ
không phải là một cuộc tấn công chớp nhoáng, như thế có khả năng quân nhà Đường
ở phủ đô hộ vẫn còn. Như vậy chúng ta có thể đoán rằng: Vào khoảng tháng 4, Đỗ
Anh Hàn vây và tấn công phủ, Cao Chính Bình cố thủ, lo lắng quá mà chết. Nhà Đường
nhận được tin, phong Triệu Xương làm An Nam đô hộ, Triệu Xương tiếp quản phủ,
chống cự với Đỗ Anh Hàn, đồng thời chiêu dụ, do đó quần man đều hàng. Tuy rằng
Tân Đường thư chép rằng Đỗ Anh Hàn bị giết, nhưng thông tin này chưa chắc đã đúng
vì Đỗ Anh Hàn là thủ lĩnh của quần man, Triệu Xương sẽ không dại gì giết đi người
này, bởi giết Đỗ Anh Hàn sẽ khiến cho quần man vừa hàng sẽ làm loạn lên.
Việc
ghi chép về nhân vật Phùng Hưng trong Việt điện u linh tập dẫn lại Giao Châu ký
của Triệu công cũng như những tài liệu trong dân gian, thì rất có thể tồn tại
nhân vật Phùng Hưng, ông có khả năng là một hào trưởng của một vùng ở Đường Lâm,
khi Đỗ Anh Hàn khởi binh, ông đã tham gia. Có thể Phùng Hưng đã chết trong một
trận đánh nào đó năm 791 và người đời thương tiếc đã lập đền để thờ, lưu truyền
những câu chuyện về ông, theo thời gian những câu truyện ấy bị thay đổi và cho
đến Lý Tế Xuyên thì như chúng ta đã thấy.
Tiểu kết,
chúng ta rút ra vài ý kiến sau:
-
Có bằng chứng cho thấy, triều đình phương bắc biết rõ các sự kiện diễn ra ở An
Nam năm 791, tuy nhiên Hán sử lại không có ghi chép gì về nhân vật Phùng Hưng,
thêm vào đó là những kết luận về Bố Cái đại vương trong những tiểu kết trước,
cho phép chúng ta khẳng định: Phùng Hưng không phải là thủ lĩnh của người An
Nam tấn công phủ đô hộ năm Nguyên Trinh (năm 791).
- Người thủ lĩnh
An Nam đó, không ai khác chính là Đỗ Anh Hàn và chưa chắc Đỗ Anh Hàn đã bị giết
như trong Tân Đường thư chép.
-
Đỗ Anh Hàn vây và tấn công phủ, Triệu Xương được cử là An Nam đô hộ, có thể Triệu
Xương đã chiêu dụ quần man và Đỗ Anh Hàn đã không làm phản nữa. Phùng Hưng có
thể có thật và có thể đã tham gia cuộc khởi binh năm 791 với tư cách là tướng lĩnh
dưới quyền Đỗ Anh Hàn, ông có thể bị chết trong cuộc chiến.
5.
Chúng ta sẽ tìm hiểu về bối cảnh của cuộc khởi binh năm 791. Chúng ta biết rằng
năm 602 Giao Châu dưới sự cai trị của Lý Phật Tử bị mất bởi nhà Tuỳ, năm 622
Giao Châu chính thức thuộc Đường, Khâu Hoà là quản lý cao nhất tại An Nam.
Trong
một bài viết về Đường Lâm quê của Phùng Hưng và Ngô Quyền của nhóm tác giả Trần
Ngọc Vượng, Nguyễn Tô Lan, Trần Trọng Dương. Đã đặt giả thuyết về quê của Phùng
Hưng và Ngô Quyền là một Đường Lâm khác, chứ không phải là Đường Lâm ở Sơn Tây
như chúng ta biết. Đường Lâm khác ấy nằm ở khu vực Thanh Hoá ngày nay.
Cựu Đường thư
chép: “Đạo Lĩnh Nam, châu Phúc Lộc: Đất đai phong tục giống với đất quận Cửu
Chân, sau bị người Sinh Liêu chiếm. Năm thứ ba niên hiệu Long Sóc (663), Trí
Châu Thứ sử Tạ Pháp Thành chiêu dụ bảy nghìn lạc dân thổ Côn Minh, Bắc
Lâu. Năm Tổng Chương thứ hai (669), đặt ra châu Phúc Lộc để cai trị họ. Năm đầu
niên hiệu Thiên Bảo đầu tiên (742), đổi làm quận Phúc Lộc. Năm thứ hai niên hiệu
Chí Đức (757), đổi làm quận Đường Lâm. Năm đầu tiên niên hiệu Càn Nguyên (758),
đặt lại làm châu Phúc Lộc. Lĩnh hai huyện, không tính số hộ, người và số dặm đường
đến hai kinh đô, bốn phía đến châu quận. Nhu Viễn: sở trị của châu, cùng lập
ra với châu, vốn tên là An Viễn, năm thứ hai niên hiệu Chí Đức, đổi tên là Nhu
Viễn vậy. Đường Lâm.”
Tân
Đường thư chép: “Quận Đường Lâm của châu Phúc Lộc, vốn là quận Phúc Lộc, năm thứ
hai niên hiệu Tổng Chương (669), Trí Châu Thứ sử là Tạ Pháp Thành chiêu dụ hơn
bảy nghìn lạc người thổ Côn Minh, Bắc Lâu, cho nên đất Đường Lâm đặt ra. Năm đầu
tiên niên hiệu Đại Túc đầu tiên đổi tên là châu An Vũ, năm thứ hai
niên hiệu Chí Đức (757) đổi thành quận đặt tên là Đường Lâm, năm đầu tiên
niên hiệu Càn Nguyên (758), đặt lại tên châu như cũ. Đồ cống nạp của đất này: bạch
lạp, tử cốc. Ba trăm mười bảy hộ. Ba huyện: Nhu Viễn, vốn là huyện An Viễn, năm
Chí Đức thứ hai đổi tên; Đường Lâm, đầu thời Đường lấy hai huyện Đường Lâm, An
Viễn đặt ra châu Đường Lâm, sau châu, huyện đều bỏ, đổi đặt lại; Phúc Lộc.”
“Đạo Lĩnh Nam: Một
đường từ phía đông Hoan Châu đi hai ngày, đến huyện An Viễn của châu Đường
Lâm, đi về phía nam qua sông Cổ La, đi hai ngày đến sông Đàn Động của nước Hoàn
Vương. Lại đi bốn ngày đến Chu Nhai. Lại đi qua Đan Bổ Trấn, đi hai ngày đến
thành nước Hoàn Vương, thời Hán xưa gọi là đất quận Nhật Nam vậy.”
Theo
sách Cựu Đường thư thì trước năm 669, lạc dân thổ Côn Minh, Bắc Lâu hoàn toàn độc
lập với nhà Đường, năm 669 họ bị chiêu dụ cai trị với cơ sở hành chính là châu
Phúc Lộc. Trên phương diện chính quyền thì là cai trị, nhưng trên phương diện của
lạc dân thổ thì họ vẫn hoàn toàn tự chủ, chính quyền cử đại diện của họ (là Thứ
sử) để liên lạc với lạc dân thổ thông qua hào trưởng của lạc dân thổ, quan hệ
giữa chính quyền với hào trưởng là quan hệ cống nạp chứ không phải là thuế, nghĩa
là họ quản lý gián tiếp chứ không phải trực tiếp chúng dân (trên phương diện của
chính quyền).
Năm 687 tại An
Nam có cuộc khởi binh lớn của Lý Tự Tiên và Đinh Kiên, khiến đô hộ Lưu Diên Hựu
chết. Cuộc khởi binh này có nguyên nhân “Theo Đường thư, trước kia, đám người
Lý hằng năm nộp tô có một nửa số đã quy định. Diên Hựu bắt phải nộp cả số ấy. Mọi
người đều oán, mưu định cùng nhau dấy loạn” (Khâm định Việt sử thông giám cương
mực) do thực hiện sai chính sách thu thuế các hộ Lý, như vậy ít nhất là trước năm
687, các hộ Lý vẫn được hưởng chính sách thuế của chính quyền là chỉ phải đóng
một nửa so với quy định, đây rõ ràng là một chính sách cai trị mền dẻo và khôn
khéo. Theo những nghiên cứu của Phan Huy Lê về Mai Thúc Loan thì năm 713 Mai Hắc
Đế khởi binh tiến đánh phủ đô hộ, dành độc lập gần 10 năm. Đến năm 766, quân Côn
Luân, Chà Bà tấn công An Nam, Kinh lược sử Trương Bá Nghi phải cầu binh đô uý Vũ
Định tên Cao Chính Bình. Năm 768 nhà Đường đổi tên đất An Nam. Cuối cùng năm
791 Đỗ Anh Hàn tấn công phủ đô hộ. Như vậy, Đường Lâm quê của Đỗ Anh Hàn rất có
thể là đất Đường Lâm mà Tạ Pháp Thành chiêu dụ được lạc dân thổ quy thuận nhà
Đường. Tư trị thông giám chép: “An Nam Đô hộ Cao Chính Bình đánh thuế nặng”.
Đây được cho là lý do cho cuộc khởi binh của Đỗ
Anh Hàn, đã có sự thay đổi đáng kể trong việc quản lý của nhà Đường từ chính sách
cống nạp sang chính sách thuế, chúng ta không biết việc biến chuyển này diễn ra
khi nào. Nhưng với chính sách khôn khéo của chính quyền đô hộ thì nếu có thì chính
sách ấy sẽ thường được thực hiện ở những nơi phụ thuộc sâu, tiếp đó mới đến những
nơi lệ thuộc lỏng lẻo. Thế nhưng sự phản ứng đầu tiên lại diễn ra ở những nơi có
sự quản lý lỏng lẻo (vùng lãnh thổ ki mi). Như vậy, chúng ta có thể giả thuyết
rằng không phải Cao Chính Bình đánh thuế nặng, mà nguyên nhân của cuộc khởi
binh là do Cao Chính Bình bắt đầu bỏ chính sách cống nạp chuyển sang áp dụng chính
sách thuế, làm quyền lợi của các hào trưởng bị ảnh hưởng, một mặt chính sách
thuế giúp chính quyền trực tiếp quản lý dân chúng, nhưng cũng đồng thời làm cho
vai trò của hào trưởng bị giảm đi rõ rệt đối với cả chính quyền và lạc dân thổ.
Trong bối cảnh ấy, một cuộc khởi binh cũng hoàn toàn hợp lý. Đỗ Anh Hàn tuy là
hào trưởng, nhưng dẫu sao cũng chỉ là thủ lĩnh của đất Đường Lâm, sự ảnh hưởng
của ông cùng lắm thì vươn tới các châu lân cận, chứ không ảnh hưởng được đến toàn
cõi An Nam, do vậy dù có chiếm được phủ đô hộ đi nữa thì cũng chưa chắc đã được
sự ủng hộ cũng như có thể cai trị được toàn cõi An Nam, nên khi Triệu Xương chiêu
dụ và hứa đảm bảo hào trưởng vẫn quản lý vùng châu cũ thì khả năng Đỗ Anh Hàn sẽ
đồng ý cao.
Sau
khi Triệu Xương chiêu dụ được quần nam, có lẽ chính sách cống nạp vẫn được áp dụng
ở Đường Lâm và các vùng đất ki mi. Tuy nhiên Triệu Xương đã đưa ra một giải pháp
để quản lý các vùng đất ki mi là “địa phương hoá chính quyền” chính sách này một
mặt giúp chính quyền có thể can thiệp trực tiếp vào dân (nghĩa là loại bỏ dần
vai trò của hào trưởng) biến hào trưởng dần trở thành người giúp việc (hợp tác)
cho chính quyền, làm mất đi tính tự chủ của hào trưởng và do đó là của vùng lãnh
thổ, thế nhưng chính sách này có 2 ảnh hưởng rất lớn theo chiều hướng xấu đối với
chính quyền.
Man thư chép: “Khi đó (Triệu Xương)
lấy Đô áp nha Đỗ Anh Sách làm Chiêu thảo phó sứ, nhập viện phán án, mỗi tháng cấp
cho lương tiền 70 quan; lấy kỳ khách Trương Chu làm An Nam Kinh lược phán quan,
sau lại cử Trương Chu làm Đô hộ”.
Đường hội yếu chép:
“[Nguyên Hòa thứ 4 (809)] Tháng 9 năm ấy, bọn An Nam Đô tri Binh mã sứ kiêm Áp
nha An Nam Phó đô hộ Đỗ Anh Sách 50 người làm bản tấu lên triều đình nêu chính
tích của bản quản Kinh lược Chiêu thảo xử trí đẳng sứ kiêm An Nam Đô hộ Trương
Chu kể từ khi đến nhậm chức”.
Theo
Cựu Đường thư Bùi Hành Lập được cử sang làm An Nam Đô hộ, bản quản Kinh lược
Chiêu thảo sứ năm Nguyên Hòa thứ 8 (813). Và Tân Đường thư chép khi một người
Lâm Ấp tên là Lý Lạc Sơn làm phản Hoàn Vương đến cầu viện binh, để lấy lòng
Hoàn vương, Hành Lập đã sai “bộ tướng” Đỗ Anh Sách chém Lý Lạc Sơn.
Như vậy là sau
cuộc khởi binh năm 791 của Đỗ Anh Hàn, Triệu Xương được cử làm An Nam đô hộ,
Triệu Xương đã cất nhắc một người bản xứ tên là Đỗ Anh Sách, để dưới trướng. Đỗ
Anh Sách tiếp tục giữ chức quan trọng dưới thời đô hộ Trương Chu và Bùi Hành Lập
(813). Ngoài Đỗ Anh Sách còn có Phạm Đình Chi là người cùng thời, cùng quan đô
hộ. Một số thủ lĩnh An Nam thời thuộc Đường: “Phạm Đình Chi là một tù trưởng miền
núi (khê động hào) được Đô hộ Bùi Hành Lập sử dụng cùng thời với Đỗ Anh Sách.
Phạm Đình Chi thường xin Bùi Hành Lập nghỉ để đi tắm nhưng không quay lại đúng
hẹn. Sau nhiều lần như vậy, Bùi Hành Lập lấy quân pháp xử phạt, đem giết Phạm
Đình Chi, sau đó lại chọn trong số bọn tử đệ của Diên Chi một người để thay thế.
Qua đó, chúng ta biết được rằng, giống như Đỗ Anh Sách, Phạm Đình Chi cũng bị
ràng buộc phải có mặt ở trị sở của An Nam Đô hộ”.
Tư trị thông giám chép: “[Năm Nguyên Hòa 14 (819)] Mùa đông tháng 10, Dung quản [Kinh lược sứ] tấu An Nam tặc là Dương Thanh hạ Đô hộ phủ (An
Nam đô hộ phủ trị tại Giao châu) giết Đô hộ Lý Tượng Cổ và vợ con, quan thuộc,
bộ khúc hơn 1000 người. Tượng Cổ là anh của Đạo Cổ. Do tham lam, hà khắc nên để
mất lòng người. Thanh nhiều đời làm tù trưởng người Man. Tượng Cổ gọi về làm
nha tướng. Thanh u uất, bất đắc chí. Tượng Cổ sai Thanh dẫn 3 nghìn quân đánh
Hoàng Động Man. Thanh nhân lòng người phẫn uất, dẫn quân ban đêm tập kích phủ
thành, hạ thành”.
Cũng giống
như Đỗ Anh Sách, Dương Thanh làm nha tướng dưới thời đô hộ Lý Tượng Cổ, Thanh
nhiều đời làm tù trưởng người Man, do có sức ảnh hưởng lớn nên để kiềm chế, Lý
Tượng Cổ đã gọi về cho làm nha tướng.
Đường hội yếu chép:
“[Khai Thành] Năm thứ 4 (839) tháng 11, An Nam Đô hộ Mã Thực tấu: “An Nam Kinh
lược Áp nha kiêm Đô tri Binh mã sứ Đỗ Tồn Thành cai quản 4 hương thiện lương,
xin cấp cho 1 quả ấn. 4 hương này là hương người Lão, Đỗ Tồn Thành kế nghiệp quản
hạt từ đời tổ phụ. Đinh khẩu, phú thuế của 4 hương này có khác so với một quận.
Vì Man di không biết viết chữ, khó lấy gì làm bằng. Trước đây, khi thu thuế, Đỗ
Tồn Thành lấy gỗ khắc ấn dùng tạm. Phục xin triều đình cấp 1 quả ấn cho Đỗ Tồn
Thành sử dụng”. Chiếu sắc chấp thuận”.
Tư
trị thông giám chép: “Mùa hạ, tháng 6 Quí Sửu (861) lấy Diêm châu Phòng ngự sứ
Vương Khoan làm An Nam Kinh lược sử. Lúc đó, Lý Hộ làm Vũ châu mục, tập hợp thổ
quân đánh quần Man, lấy lại được An Nam. Triều đình trách việc làm thất thủ An
Nam của Lý Hộ, biếm làm Đam châu Ty hộ. Hộ lúc mới đến An Nam, giết Man tù trưởng
Đỗ Thủ Trừng. Bọn tông đảng bèn dẫn quần Man chiếm Giao Chỉ. Triều đình thấy họ
Đỗ cường thịnh, muốn o bế, thu lấy lực lượng đó để sử dụng, bèn truy tặng cho bố
của Thủ Trừng là Tồn Thành chức Kim ngô tướng quân, lại nêu lên tội giết Thủ Trừng
của Hộ, đày Hộ sang Nhai châu”.
Cha con Đỗ Tồn
Thành và Đỗ Thủ Trừng thực sự đã làm chủ vùng đất từ thời cha ông để lại, họ cũng
hợp tác với chính quyền đô hộ.
Man
thư chép: “Ngày 6 tháng 6 năm Hàm Thông thứ 4 (863) Man tặc hơn 4000 nghìn người,
2 nghìn người dưới trướng của thảo tặc Chu Đạo Cổ cùng chèo thuyền nhỏ mấy trăm
chiếc đánh lấy Quận châu. An Nam Đô Áp nha Trương Khành Tông, Đỗ Tồn Lăng, Vũ
An châu Thứ sử Trần Hành Dư lấy chiến thuyền lớn mười mấy chiếc, đánh chìm ba
mươi mấy thuyền của Man tặc”. Và
“Trước đây, các
đời Kinh lược sứ thường niệm tình thân thuộc, tấu xin cho bọn nguyên tùng, áp
nha làm thứ sử, thần e rằng không ổn. Thần (Phàn Xước) trộm biết, cố An Nam tiền
Tiết độ sứ Triệu Xương, sửa sang việc Giao Chỉ tổng cộng 13 năm, đến nay vẫn để
lại lòng ái ngưỡng nơi các bậc bô lão, làm cho trong cõi vô sự. Khi đó, (Triệu
Xương) lấy Đô áp nha Đỗ Anh Sách làm Chiêu thảo phó sứ, nhập viện phán án, mỗi
tháng cấp cho lương tiền 70 quan; lấy kỳ khách Trương Chu làm An Nam Kinh lược
phán quan, sau lại cử Trương Chu làm Đô hộ. Từ khi Lý Tượng Cổ nhậm chức An Nam
Kinh lược sứ, tự ý tham lam tàn hại, dẫn đến việc động binh. Tiếp đó lại có Lý
Trác háo sát, làm cho sinh linh chịu hại. Nếu không phải do người trưởng lại,
thì làm sao có chuyện người ta làm càn”.
Như
vậy là kể từ thời đô hộ Triệu Xương (năm 791) đến Kinh lược sử Thái Tập (năm
863). Các đô hộ tại An Nam đã sử dụng chính sách ‘chính quyền hoá địa phương’ một
cách mạnh mẽ với mục đích trước mắt là giữ yên được An Nam, về lâu dài sẽ tạo cơ
hội để can thiệp trực tiếp và đời sống xã hội của dân chúng mà không cần thông
qua một nhóm, tầng lớp bản địa nào cả. Đây là một chính sách khôn khéo, tuy nhiên
qua chính sách này cũng cho thấy bản thân chính quyền tại An Nam là yếu, bằng
chứng là liên tiếp những cuộc phản loạn do bộ tướng người bản địa dưới quyền
quan đô hộ thực hiện và đều thành công. Từ năm 863 trở về trước, khu vực trung
tâm tại An Nam nằm dưới sự cai trị trực tiếp của chính quyền đô hộ, tuy nhiên những
vùng xa trung tâm thì về cơ bản vẫn ở trạng thái tự trị (tất nhiên là có sự kiểm
soát của chính quyền đô hộ). Đại diện cho những vùng ki mi ấy, là tầng lớp hào
trưởng, tù trưởng (vốn là hệ thống quản lý xã hội được hình thành một cách tự
nhiên của các vùng ki mi tự trị), trong mối quan hệ với chính quyền đô hộ họ đại
diện cho quyền lợi của vùng ki mi đồng thời cũng là đại diện quyền lợi của chính
bản thân tầng lớp, tất nhiên mối quan hệ ấy chẳng bao giờ là công bằng, dưới áp
lực của chính quyền đô hộ họ hợp tác, trở thành công cụ để vươn dài sự ảnh hưởng
của chính quyền phương bắc. Tuy nhiên, cũng chính từ sự hợp tác này (là một quá
trình học tập và thực hành) đã tạo ra một nhóm những người bản địa có khả năng
và có thể cai trị (tổ chức và điều hành chính quyền) một vùng đất lớn hơn vùng
đất ki mi như toàn bộ An Nam (vùng gồm nhiều ki mi) chẳng hạn. Vấn đề còn lại là
khi nào thì có cơ hội để nhóm người này thực hiện điều đó? Tất nhiên lịch sử
cho thấy, đó là lúc chính quyền phương bắc suy tàn!
Tiểu
kết, chúng ta có thể rút ta vài ý kiến sau đây:
-
Đường Lâm quê hương cũng là nơi khởi binh của Đỗ Anh Hàn là một vùng ki mi tự
trị, đô hộ Cao Chính Bình đã có những chính sách tác động đến sự quản lý của tù
trưởng, làm phát sinh mâu thuẫn giữa chính quyền phương bắc mà đại diện là chính
quyền đô hộ tại An Nam với tầng lớp tù trưởng, hào trưởng cũng như các lạc thổ
dân tại các vùng ki mi tự trị, dẫn đến việc binh biến năm 791.
- Từ thời Triệu
Xương năm 791 đến thời Thái Tập năm 863, các đô hộ áp dụng chính sách chính quyền
hoá địa phương diễn ra mạnh mẽ, nó một mặt cho thấy sự bất lực của chính quyền đô
hộ, cũng như kế hoạch khôn khéo nhằm loại bỏ một thế lực lớn (tầng lớp hào trưởng,
tù trưởng) là đại diện và có thể tập trung được sức mạnh của dân bản địa. Mặt
khác, nó tạo ra một nhóm người bản địa có khả năng và có thể tổ chức và điều hành
xã hội của một vùng đất rộng lớn.
6.
Chúng
ta sẽ cùng tìm hiểu xem thời điểm Đỗ Anh Hàn khởi binh cho đến khi kết thúc cuộc
khởi nghĩa là khi nào?
Sách Đại Việt sử ký toàn thư chép: “Khoảng niên hiệu
Đại Lịch [766-779] đời Đường Đại Tông, nhân Giao Châu có loạn, cùng với em là
Hãi hàng phục được các ấp bên cạnh, Hưng xưng là Đô Quân, Hãi xưng là Đô Bảo,
đánh nhau với Chính Bình, lâu ngày không thắng được. Đến đây dùng kế của người
làng là Đỗ Anh Hàn, đem quân vây phủ. Chính Bình lo sợ phẫn uất thành bệnh ở
lưng mà chết. Hưng nhân đó vào đóng ở phủ trị, chưa được bao lâu thì chết. Con
là An tôn xưng làm Bố Cái Đại Vương” và
Sách Khâm định
Việt sử thông giám cương mục chép: “Khoảng năm Đại Lịch (766-779) nhà Đường,
nhân thời buổi loạn lạc, Phùng Hưng cùng với em là Phùng Hải đem quân uy phục
được các ấp láng giềng, tự xưng là đô quân; Phùng Hải xưng là đô bảo. Khi bấy
giờ chính sách của đô hộ là Cao Chính Bình, đánh thuế nặng lắm. Phùng Hưng đánh
Chính Bình mãi không được, mới dùng kế của người làng là Đỗ Anh Hàn, đem quân đến
vây phủ: Chính Bình vì lo sợ mà chết. Phùng Hưng vào ở trong phủ lạy, được ít
lâu thì mất. Dân chúng lập con là An lên làm đô phủ quân, tôn Hưng làm Bố Cái đại
vương”.
Như vậy theo Việt sử thì cuộc khởi binh diễn ra vào
khoảng năm Đại Lịch (766-779) nhân thời buổi loạn lạc và kết thúc sau vài năm
chiếm được phủ đô hộ (năm 791). Nhưng cụ thể là năm bao nhiêu?
Đại Việt sử ký toàn thư chép: “Đinh Mùi [767], (Đường
Đại Tông Dự, Đại Lịch thứ 2). [Người] Côn Lôn , Chà Bà đến cướp, đánh
lấy châu thành. Kinh lược sứ Trương Bá Nghi cầu cứu với Đô úy châu Vũ Định là
Cao Chính Bình. Quân cứu viện đến, đánh tan quân Côn Lôn, Chà Bà ở Chu Diên. Bá
Nghi đắp lại La Thành” và
Khâm định Việt sử thông giám cương mục chép: “Năm
Đinh Mùi (767). (Đường, Đại Tông, năm Đại Lịch thứ 2). Nước Côn Luân, nước Chà
Bà vào lấn cướp. Kinh lược sứ là Trương Bá Nghi đánh phá được; đắp La Thành.
Theo sách An Nam kỷ yếu, Côn Luân và Chà Bà đánh hãm châu thành. Trương Bá Nghi
cầu viện với đô úy quận Vũ Định là Cao Chính Bình. Viện binh đến đánh phá được
quân giặc ở Chu Diên. Bá Nghi lại đắp La Thành”
Theo như Việt sử thì năm 767 liên minh Côn Lôn và Chà
Bà lân cướp, Kinh lược sứ phải cầu cứu Đô uý châu Vũ Định, đây có thể được coi
là sự kiện gây ra loạn lạc rõ ràng nhất ở An Nam, từ đó có thể cho rằng: Đỗ Anh
Hàn cũng nhân sự kiện ấy mà khởi binh.
Thế nhưng các sách Hán sử lại không có một ghi chép
nào về sự kiện Côn Lôn và Chà Bà lân cướp An Nam, Cựu Đường thư không, Tân Đường
thư không và Tư trị thông giám cũng không. Đây rõ ràng là một việc khó hiểu! Trong
khi chính Cựu Đường thư ghi nhận: Trong năm 640 và 768, Chà Bà có gửi các sứ giả
sang dâng phẩm vật triều cống và Tân Đường thư ghi nhận: Giữa các năm 766 và
799, ba sứ giả từ Chà Bà đã đến Trung Hoa. Tuy rằng Khâm định Việt sử thông giám
cương mục có dẫn sách An Nam chí nguyên nhưng e rằng sách này cũng chỉ được xếp
cùng với Đại Việt sử ký toàn thư. Vì thế mà sự kiện Côn Lôn và Chà Bà tấn công
An Nam năm 767 chưa chắc đã đúng như sách Việt sử chép.
Đường hội yếu chép: “Tháng 8 năm Nguyên Hòa thứ 4
(809), An Nam Đô hộ (Trương Chu) tấu: phá quân Hoàn Vương ngụy hiệu là Ái châu
Đô thống hơn 30 vạn người, bắt được vương tử 59 người, khí giới, chiến thuyền,
voi chiến. Tháng 9 năm ấy, bọn An Nam Đô tri Binh mã sứ kiêm Áp nha An Nam Phó
đô hộ Đỗ Anh Sách 50 người làm bản tấu lên triều đình nêu chính tích của bản quản
Kinh lược Chiêu thảo xử trí đẳng sứ kiêm An Nam Đô hộ Trương Chu kể từ khi đến
nhậm chức. An Nam La thành trước đây do Kinh lược sứ Trương Bá Nghi đắp. Khi
đó, trăm họ giống như giặc cướp, (thành) chỉ cao có mấy thước, lại rất chật hẹp.
Từ khi Trương Chu đến nhậm chức, nhân sau lúc nông nhàn, tấu xin xây cất thành
mới. (Lược 1 đoạn) Đời Kinh lược sứ Bùi Thái trước đây thành trì Hoan, Ái bị
Hoàn Vương Côn Lôn thiêu hủy cháy trụi cả. Từ sau khi Trương Chu đến nhậm chức,
năm trước xây thành Hoan châu, năm ngoái đắp thành Ái châu. Thời Bùi Thái,
không giữ quân thành, trong quân mất mát hết khí giới. Triệu Xương đến nhậm chức
không được bao lâu lại quay về nhận chức ở Quảng châu. Từ khi Trương Chu đến nhậm
chức, các đạo xin đến mua bán, mỗi tháng chế tạo 8 nghìn khí giới. [Mười] Bốn
năm trở lại đây, tổng cộng làm được hơn 40 vạn. Ở hai bên tả hữu Đại sảnh, lập
Giáp trượng lâu 40 gian để cất giữ (khí giới). Khi giặc rợ An Nam đến cướp, khó
lợi về mặt chiến đấu. (Vì) Trước đây chiến thuyền có không quá mười mấy chiếc,
lại rất chậm chạp, không thể tiếp cận được thuyền giặc. Trương Chu tự mình suy
nghĩ, chế ra Mông đông thuyền hơn 400 chiếc. Mỗi thuyền có 25 lính, 32 tay
chèo, 1 cỗ máy nỏ, 1 cỗ lưỡng cung nỗ. Mái chèo đưa ra từ trong thuyền, khi muốn
quay thuyền thì (tay chèo) quay lưng lại, đi lại như bay. Sắc chỉ lệnh chuyển bản
tấu cho sở ty”.
Như vậy là thời Trương Bá Nghi làm Kinh lược sứ, trăm
họ ở An Nam giống như giặc cướp, nên Bá Nghi đã phải đắp La thành.
Cựu đường thư chép: “Phó sứ nước ấy là Triều Thần Trọng
Mãn mộ phong tục của Trung Quốc, nhân đó ở lại không về, đổi họ tên là Triều
Hành, làm quan trải các chức Tả bổ khuyết-Nghi vương hữu. Hành ở lại kinh sư 50
năm, ưa đọc sách truyện, khi bị đuổi về nước cũng ở lại không đi. Năm Thiên Bảo
thứ 12 (năm 753), (Nhật Bản) lại sai sứ sang cống. Giữa những năm Thượng Nguyên
(năm 760-761), lấy Hành làm Tả tán kị thường thị-Trấn Nam đô hộ” và “Năm vĩnh
thái thứ hai (năm 766) (…) tháng 2 (…) nhâm thìn, đổi Trấn Nam đô hộ thành An Nam
đô hộ như cũ” và “Năm đại lịch thứ hai (năm 767) (…) tháng 7 (…) Hàng châu
thích sử Trương Bá Nghi làm An Nam đô hộ”.
Như vậy là năm 761 Triều Hành làm Trấn Nam đô hộ, tới năm 766
nhà Đường đổi Trấn Nam đô hộ thành An Nam đô hộ, năm 767 cử Trương Bá Nghi làm
An Nam đô hộ, Trương Bá Nghi tới An Nam nhận thấy trăm họ ở đây như giặc cướp
(có lẽ do thấy trăm họ bất tuân chính quyền đô hộ) nên đã chủ ý đắp La thành.
Chúng ta phán đoán rằng: thời Triều Hành làm đô hộ, Đường Lâm còn tự chủ, mối ràng
buộc với chính quyền đô hộ lỏng lẻo, khi Trương Bá Nghi tới, đã có những chính
sách nhằm kiểm soát sâu hơn An Nam, việc này làm dân An Nam vốn bị ràng buộc tương
đối lỏng lẻo đã làm loạn, các thế lực ở An Nam trở nên căng thẳng trong mối
quan hệ với chính quyền của nhà Đường ở địa phương, mà đứng đầu là Trương Bá
Nghi, trong đó có Đỗ Anh Hàn ở Đường Lâm, đến khi Cao Chính Bình làm đô hộ, áp
đặt sâu hơn mà biểu hiện là chính sách thuế đã đẩy căng thẳng lên thành xung đột.
Đại Việt sử ký toàn thư chép: “Quý Mùi, [803], (Đường
Trinh Nguyên năm thứ 19). Đô đốc Bùi Thái sai lấp bỏ những hào rãnh ở trong
thành, hợp làm một thành. Tướng ở châu là Vương Quý Nguyên đuổi Bùi Thái đi.
Vua Đường vời Xương hỏi tình trạng. Xương đã ngoài 70 tuổi, mà tâu việc rõ
ràng. Vua Đường cho là giỏi, lại sai làm Đô hộ Giao Châu. Xương đến, người
trong châu đều mừng, loạn bèn yên”.
Khâm định Việt sử thông giám cương mục chép: “Năm Tân Tị
(801). (Đường, năm Trinh Nguyên thứ 17). Nhà Đường dùng Bùi Thái làm đô hộ. Triệu
Xương xin người sang thay, nhà Đường sai lang trung bộ Binh là Bùi Thái sang
thay. Bùi Thái đến nơi, bắt quân sĩ lấp bỏ những hào rãnh ở trong thành, hợp
làm một thành, lại đắp thành ở các châu Hoan và Ái. Sau đó Bùi Thái bị bộ tướng
trong châu là Vương Quý Nguyên đuổi đi.
Năm Quý Mùi (803). (Đường, năm Trinh Nguyên thứ 19). Tháng
12, nhà Đường lại cử Triệu Xương sang làm đô hộ. Theo Đường thư, bấy giờ Triệu
Xương về triều làm tế tửu chưa được bao lâu, bộ tướng Giao Châu đánh đuổi Bùi
Thái. Đức Tông vời Triệu Xương tới để hỏi tình hình. Triệu Xương bấy giờ đã
ngoài 70 tuổi, tâu bày rõ ràng không lẫn; Đức Tông lấy làm lạ, lại cử sang làm
đô hộ. Khi tờ chiếu đến nơi, người Giao Châu cùng nhau mừng rỡ; quân làm phản
liền yên ngay”.
Theo như Việt sử thì năm 801 Triệu Xương xin nghỉ, đồng thời
xin triều đình người sang thay, nhà Đường cử Bùi Thái sang, khi sang Thái cho lấp
hào rãnh trong thành hợp làm một thành, lại đắp thành ở châu Ái và châu Hoan nên
bị bộ tướng là Vương Quý Nguyên đuổi khỏi châu, vua Đường thấy vậy cho Triệu Xương
sang thay, dân chúng vui mừng, loạn lại yên. Có 2 sự kiện đáng chú ý là: lấp hào
rãnh hợp làm một thành và dân chúng vui mừng. Việc đào hào rãnh để tách thành 2
thành có từ khi nào? Chắc chắn là từ thời Triệu Xương, nhưng vì sao Triệu Xương
lại cho đào rãnh để tách làm 2 thành? Như chúng ta biết Đỗ Anh Hàn vây phủ làm
Cao Chính Bình lo lắng mà chết, Triệu Xương đến châu phủ dụ được yên. Nên việc
có 2 thành gợi ý chúng ta về việc ngoài Triệu Xương làm chủ thành trước đây của
Cao Chính Bình, thì bản thân Đỗ Anh Hàn cũng làm chủ một thành khác. Khi Bùi Thái
tới đã lệnh lấp hào rãnh, hợp 2 thành làm một, khiến cho mối quan hệ giữa chính
quyền của người bản địa xung đột với chính quyền địa phương của nhà Đường, kết
quả là Bùi Thái bị đuổi khỏi châu. Triệu Xương vốn là người có chính sách mềm mỏng
khôn khéo, dựa vào người bản địa, do vậy mà trị An Nam được hơn 10 năm, dưới
trướng của Xương có một người tên là Đỗ Anh Sách, người này là dân bản địa và có
cùng họ, tên đệm với Đỗ Anh Hàn, tôi cho rằng Đỗ Anh Sách và Đỗ Anh Hàn có mối
quan hệ họ hàng. Trong hệ thống chính quyền tại An Nam thì Đỗ Anh Sách chỉ đứng
sau Triệu Xương và ngang với Trương Chu, thế mà về sau Trương Chu làm An Nam đô
hộ (năm 808) trong khi Đỗ Anh Sách thì không, mà vẫn làm thuộc hạ dưới trướng với
mức độ quan trọng như dưới thời Triệu Xương. Việc này cho thấy: Đỗ Anh Sách làm
chức cao dưới trướng của Triệu Xương cũng là nằm trong chính sách của Xương, chính
sách dựa vào người bản địa để trị, nhưng cũng đồng thời cho thấy Đỗ Anh Sách rất
có uy thế trước người bản địa. Gợi ý cho chúng ta về một thế lực của người bản địa
tồn tại song song với chính quyền của nhà Đường ở An Nam và nó (nếu có) thì là
chính quyền do Đỗ Anh Hàn thiết lập.
Khi Triệu Xương tới châu thì sẽ tiếp tục duy trì mối quan hệ
hợp tác như trước đây từng làm, nghĩa là đảm bảo quyền lợi của người bản địa, vì
thế mà dân chúng cùng mừng. Nhưng đó là một giả thuyết, chúng ta cũng có thể đặt
một giả thuyết khác là: Trương Chu và Đỗ Anh Sách vốn là người rất có uy thế
trong châu, nay Triệu Xương thôi chức, họ có tham vọng muốn thâu tóm An Nam, nhưng
nay triều đình lại cử viên quan tới nhậm chức, thành ra họ lập kế hoạch, dùng Vương
Quý Nguyên để đuổi Bùi Thái đi.
Thế nhưng Hán sử khi chép về sự kiện Quý Nguyên đuổi Bùi Thái
khỏi châu lại không nhắc tới việc lấp các hào rãnh để hợp làm một thành.
Cựu Đường thư chép:
“Năm Trinh Nguyên thứ 18 (…) tháng 3 (…) canh thìn, lấy từ bộ viên ngoại lang
Bùi Thái làm kiểm giáo binh bộ lang trung, sung An Nam đô hộ, kiêm quản kinh lược
sứ” và “Năm
Trinh Nguyên thứ 19 (…) tháng 2 (…) kỷ hợi, An Nam kinh lược sứ Bùi Thái bị bộ
tướng Vương Quý Nguyên đuổi khỏi châu” và “Năm Trinh Nguyên thứ 20 (…) tháng 3 (…) kỷ hợi, lấy quốc tử
tế tửu Triệu Xương làm An Nam đô hộ, ngữ sử đại phu, kiêm quản kinh lược sứ” và
“Bái [Triệu Xương] làm
An Nam đô hộ, người di hưởng ứng giáo hoá. Năm 70 tuổi bị đau chân, xin về nghỉ,
để binh bộ lang trung Bùi Thái thay, phong quốc tử tế tửu. Gặp lúc Thái bị thủ
lĩnh người nam trục xuất khỏi châu, Đức Tông chiếu vời hỏi tình hình. Xương đã
72 tuổi nhưng vẫn tinh kiện, vua lấy làm kỳ lạ, phục mệnh làm đô hộ, người nam
cùng mừng”.
Tư trị thông giám chép:
“Năm Trinh Nguyên thứ 19 (năm 803) (…) tháng 2 (…) đinh hợi, An Nam nha tướng Vương
Quý Nguyên trục quan sát sử Bùi Thái, Thái chạy tới Chu Diên. Cùng tháng tả
binh mã sử Triệu Quân giết Quý Nguyên cùng đồng đảng, đón Thái về châu”.
Như vậy rất khó để có
thể chắc chắn rằng: Đỗ Anh Hàn thực sự đã thiết lập một chính quyền song song với
chính quyền tại An Nam của nhà Đường, tuy nhiên trong đoạn chép của Đường hội yếu
ở trên có miêu tả vài chi tiết nhỏ về tình hình An Nam thời Bùi Thái như: Thành
trì châu Hoan, Ái bị Hoàn Vương và Côn Lôn thiêu rụi, không giữ quân thành và
binh giới trong quân mất hết. Với những chi tiết này cùng với việc Thái bị Quý
Nguyên đuổi khỏi châu chứng tỏ Thái không nắm quân lính trong tay. Trong khi Xương
nghỉ đã xin triều đình cử người đến thay mà không hề tiến cử 2 thuộc hạ của mình
là Trương Chu và Đỗ Anh Sách, như vậy thì khi Thái tới, với tư cách triều đình
cử đến nhậm chức thay cho Xương (theo yêu cầu của chính Xương) thì Chu và Sách
về bên ngoài phải tuân lệnh Thái và cũng về bên ngoài đối với 2 người này thì
Thái như Xương. Thế nhưng khi Thái bị Nguyên đuổi chúng ta không thấy vai trò của
Chu và Sách mà thay vào đó là Triệu Quân. Việc thiếu vắng vai trò của Chu và Sách
trong sự kiện Thái bị đuổi khỏi châu cùng với sự miêu tả của Phàn Xước về tình
hình An Nam trong Man thư cho thấy: Trương Chu không nắm binh quyền, chỉ là một
kỳ khách cố vấn cho Triệu Xương mà thôi, trong khi Đỗ Anh Sách là người nằm
binh quyền cao nhất ở An Nam sau Xương. Nhưng sự thiếu vắng vai trò của Sách
khiến chúng ta khó hiểu, điều thú vị là sau khi Triệu Xương làm độ hộ lần thứ
hai ở An Nam thì người kế nhiệm Xương chính là Trương Chu và Đỗ Anh Sách vẫn là
người nắm binh quyền cao nhất sau Chu. Vậy là thời Triệu Xương và Trương Chu làm
đô hộ, Đỗ Anh Sách với vai trò nắm giữ binh quyền, An Nam yên. Nhưng sau Triệu
Xương và trước Trương Chu, thời Bùi Thái, khi thiếu vắng Đỗ Anh Sách, An Nam loạn,
trước thì bị giặc ngoài tấn công sau thì bên trong làm phản, điều đó cho thấy
vai trò quan trọng của Đỗ Anh Sách, người nắm giữ binh quyền trong tay. Đỗ Anh
Sách là người bản địa nên binh lính ở An Nam do Sách chỉ huy cũng phần nhiều là
người bản địa, nghĩa là Triệu Xương và Trương Chu đã dựa vào người bản địa để mà
cai trị. Như vậy rõ ràng là Triệu Xương cũng không nắm toàn quyền, vẫn phải dựa
vào Sách, điều này đã thêm bằng chứng cho thấy Xương đã phủ dụ Đỗ Anh Hàn, chứ
không động binh, cũng có nghĩa Hàn đã không bị giết như Tân Đường thư chép. Xương
phủ dụ được người nam, Hàn không bị giết, Xương phải dựa vào Sách và quân lính
người nam để cai trị, quân lính mà Sách chỉ huy thường là quân lính theo Sách
nhiều năm, trung thành với Sách, rất khó có thể là quân lính mà Cao Chính Bình
để lại (vì quân lính này sẽ nghe lời Xương, mà nếu nghe lời Xương thì Xương không
cần dựa vào Sách), thêm nữa Sách và Hàn lại cùng họ Đỗ Anh, tất cả dẫn ta tới
giả thuyết rằng: Sách và Hàn có mối quan hệ họ hàng, có thể là anh em hoặc cha
con thậm chí có thể là một người. Dù là như thế nào thì, kết quả là sau cuộc vây
và tấn công phủ đô hộ năm 791, chính quyền phương bắc tại An Nam mà đứng đầu là
Triệu Xương đã đàm phán, thoả thuận với nghĩa binh bản địa đứng đầu là Đỗ Anh Hàn,
công cuộc ấy được tiếp nối bởi Đỗ Anh Sách ít nhất là tới thời Bùi Hành Lập (năm
813-817).
Một
số thủ lĩnh An Nam thời thuộc Đường của Phạm Lê Huy viết: “Theo Cựu Đường thư
Bùi Hành Lập được cử sang làm An Nam Đô hộ, bản quản Kinh lược Chiêu thảo sứ
năm Nguyên Hòa thứ 8 (813). Và Tân Đường thư chép khi một người Lâm Ấp tên là
Lý Lạc Sơn làm phản Hoàn Vương đến cầu viện binh, để lấy lòng Hoàn vương, Hành
Lập đã sai “bộ tướng” Đỗ Anh Sách chém Lý Lạc Sơn” và “Phạm Đình Chi là một tù
trưởng miền núi (khê động hào) được Đô hộ Bùi Hành Lập sử dụng cùng thời với Đỗ
Anh Sách. Phạm Đình Chi thường xin Bùi Hành Lập nghỉ để đi tắm nhưng không quay
lại đúng hẹn. Sau nhiều lần như vậy, Bùi Hành Lập lấy quân pháp xử phạt, đem giết
Phạm Đình Chi, sau đó lại chọn trong số bọn tử đệ của Diên Chi một người để
thay thế. Qua đó, chúng ta biết được rằng, giống như Đỗ Anh Sách, Phạm Đình Chi
cũng bị ràng buộc phải có mặt ở trị sở của An Nam Đô hộ”.
Tư trị thông giám chép: “[Năm Nguyên Hòa 14 (819)] Mùa đông tháng 10, Dung quản [Kinh lược sứ] tấu An Nam tặc là Dương Thanh hạ Đô hộ phủ (An
Nam đô hộ phủ trị tại Giao châu) giết Đô hộ Lý Tượng Cổ và vợ con, quan thuộc,
bộ khúc hơn 1000 người. Tượng Cổ là anh của Đạo Cổ. Do tham lam, hà khắc nên để
mất lòng người. Thanh nhiều đời làm tù trưởng người Man. Tượng Cổ gọi về làm
nha tướng. Thanh u uất, bất đắc chí. Tượng Cổ sai Thanh dẫn 3 nghìn quân đánh
Hoàng Động Man. Thanh nhân lòng người phẫn uất, dẫn quân ban đêm tập kích phủ
thành, hạ thành”.
Thời
Bùi Hành Lập làm đô hộ cũng vẫn sử dụng những người bản địa, ngoài Đỗ Anh Sách
còn có Phạm Đình Chi, đến năm 818 Lý Tượng Cổ sang thay Bùi Hành Lập, Cổ đã thực
hiện chính sách tham lam, hà khắc, lại sử dụng người bản địa đánh người bản địa,
dẫn đến cuộc khởi nghĩa của Dương Thanh (năm 819-820), kết quả là Cổ bị giết năm
819.
Khi Triệu Xương làm đô
hộ thì Hoàn Vương không giám tấn công, nhưng khi Bùi Thái vừa tới nơi thì Hoàn
Vương và Côn Lôn đã thiêu rụi thành trì châu Hoan, châu Ái. Cả hai lại cùng là
viên quan do triều đình cử xuống vậy thì sao phương nam lại có thái độ ứng xử
khác nhau với 2 vị quan này, như vậy rõ ràng là uy thế của triều đình không trực
tiếp lớn đối với phương nam, cái quyết định tới thái độ ứng xử của phương nam là
chính sách cai trị của mỗi viên quan đô hộ do triều đình cử xuống.
Như vậy chúng ta có
thể phán đoán rằng: Triệu Xương đã dùng chính sách mềm mỏng để yên được An Nam
trước cuộc khởi binh của Đỗ Anh Hàn, tiếp theo đó Xương sử dụng chính sách dựa
vào người bản địa để giữ yên phương nam, theo một nghĩa nào đó chúng ta có thể
hiểu đây là sự hợp tác, khi Bùi Thái tới đã áp dụng nhiều chính sách cứng rắn đã
dẫn đến sự bất hợp tác của người bản địa, kết quả là châu Hoan, Ái bị tấn công,
bản thân thì bị trục xuất khỏi châu, để yên sự loạn này triều đình phương bắc cử
Xương trở lại phương nam một chuyến.
Tiểu kết: Chúng ta không thể chắc chắn rằng khởi nghĩa của Đỗ Anh Hàn
diễn ra từ năm 766 đến năm 803 nhưng qua những sự kiện chúng ta có thể đặt giả
thuyết rằng: Đường Lâm có quan hệ ràng buộc với chính quyền phương bắc tại An
Nam rất lỏng lẻo, khi Trương Bá Nghi tới đã áp dụng những chính sách nhằm kiểm
soát chặt hơn dẫn đến không khí căng thẳng tại An Nam, cho đến khi Cao Chính Bình
làm đô hộ thì không khí ấy đẩy đến cực đại và cụ thể là cuộc khởi binh của Đỗ
Anh Hàn năm 791, trước thất bại của Chính Bình, Triệu Xương được cử đến, với chính
sách hoà hợp với người nam, Xương đã phủ dụ yên được An Nam nhưng cũng bước đầu
thực hiện chính sách dùng người nam để trị người nam, đối với tầng lớp hào trưởng
ở An Nam thì đó là sự hợp tác, nó cũng cho thấy chính quyền phương bắc ở An Nam
phụ thuộc rất nhiều vào tầng lớp hào trưởng ở bản địa, nhưng khi Bùi Thái sang
thay đã không còn duy trì chính sách này, nên kết cục là bị người trong châu đuổi
đi và như thế không có lý do gì để không tin rằng: Thành quả của cuộc khởi binh
do Đỗ Anh Hàn lãnh đạo vượt qua thời điểm vây và tấn công phủ đô hộ năm 791 tới
tận thời Bùi Hành Lập làm đô hộ.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét