1. Việt sử lược chép:
“Năm Quý Sửu [1073] Nước Chiêm Thành tới cống (…) Năm Ất Mão [1075] Chiêm Thành
tới cống (…) Năm Đinh Tị [1077] Chiêm Thành tới cống (…) Năm Tân Dậu [1081]
Chiêm Thành tới cống”.
Toàn thư chép: “Tân Hợi
[1071] Chiêm Thành sang cống (…) Quý Sửu [1073] Thái sư Lý Đạo Thành lấy chức Tả
gián nghị đại phu ra coi châu Nghệ An. Đạo Thành lập viện Địa Tạng ở trong miếu
Vương Thánh châu ấy, ở giữa viện đặt tượng Phật và vị hiệu của Thánh Tông, sớm
hôm thờ phụng. Sử thần Ngô Sĩ Liên nói: Đạo Thành là đại thần cùng họ, đương
khi để tang Thánh Tông vì có việc ra trấn ở ngoài, lòng cảm nhớ tiên đế là chân
tình, nhân mượn cớ thờ Phật để thờ vua, đó chỉ là việc nhất thời mà thôi (…) Giáp
Dần [1074] Chiêm Thành lại quấy rối biên giới. Cho Lý Đạo Thành làm Thái phó
bình chương quân quốc trọng sự (...) Ất Mão [1075] Sai Lý Thường Kiệt tổng lĩnh
các quân đi đánh Chiêm Thành, không thắng được. Thường Kiệt bèn họa địa đồ hình
thế núi sông của ba châu Bố Chính, Địa Lý, Ma Linh rồi về. Đổi châu Địa Lý làm
châu Lâm Bình, châu Ma Linh là châu Minh Linh, chiêu mộ dân chúng đến đấy ở.
Cho Thường Kiệt làm Thái úy”.
Ghi chú 12 trong sách Lý
Thường Kiệt. Lịch sử ngoại giao và tông giáo triều Lý của học giả Hoàng Xuân
Hãn viết: “TT [Toàn thư] chép việc đánh Chiêm-thành vào tháng 8 năm trước (A.
Ma 1075). VSL không chép việc ấy. SK [Đại-Việt sử-ký (Nguyễn Tây Sơn)] cho ta
biết rằng sách Việt-sử bi-lãm của Nguyễn Nghiễm chép chuyện ấy vào năm B. Th
1076. Chép như thế mới đúng lý. Nhưng ta không biết Nguyễn Nghiễm dựa vào đâu
mà chép khác TT. Trong khoảng sử về Lý, TT còn chép lầm một vài chỗ khác. Còn
như VSL, thì không nói đến việc nầy. Ấy tỏ rằng việc tuần-du nầy không quan hệ
lắm. Vậy chắc không phải để đánh Chiêm”.
Tống sử chép: “Năm [Hi
Ninh] thứ 5 [1072] sang cống (…) Năm thứ 7 [1074] Lý Càn Đức ở Giao Châu tâu,
vua Chiêm Thành đem ba ngàn quân cùng vợ con đến hàng, tháng giêng thì tới bản
đạo. Năm thứ 9 [1076] Chiêm Thành lại sai sứ sang tâu: Từ nước ấy đi đường biển
đến Chân Lạp là một tháng hành trình, theo hướng tây bắc đến Giao Châu là 40
ngày đều là đường núi. Cai quản 105 nơi dân cự tụ lạc, đại lược như châu huyện.
Quốc vương 36 tuổi, mặc áo choàng gấm Đại Thực hoặc gấm Xuyên Pháp, đeo 7 chuỗi
vàng ngọc, đội mũi kim quan trang trí thất bảo, đi giày da đỏ. Mỗi khi ra ngoài
có 500 người tùy tòng, mười người con gái bưng mân vàng để hộp đựng cau, cùng đội
nhạc dẫn đường. Quân triều đình sang đánh Giao Chỉ, vì cớ vốn có thù, bèn chiếu
cho Chiêm Thành mệnh thừa cơ hiệp lực cùng diệp trừ. Hành doanh chiến trạo đô
giám Dương Tòng sai tiểu hiệu Phàn Thực sang dụ bảo trước. Thực trở về nói nước
ấy đã tuyển chọn 7 ngàn quân chặn giữ những đường yếu đạo của giặc, quốc vương
nước ấy có lấy lá cây viết điệp trả lời và chiếu cho sứ dâng lên. Nhưng rồi việc
cũng khổng thể thành công” [Bản dịch của dịch giả Châu Hải Đường]
Tống hội yếu tập cảo: “Hi
Ninh năm thứ 4 [1071] sang cống (…) năm thứ 5 [1072] dâng san hô (…) năm thứ 9
[1076] chiếu: 2 nước Chiêm Thành, Chân Lạp bị Giao Chỉ quấy nhiễu, nay vương sư
phạt tội, cùng hiệp lực để diệt trừ (…) Riêng vương cũ của Chiêm Thành khó mà
trở về để lại làm vương của bản quốc”.
Sách Le Royaume De
Champa của Maspero viết: “Rudravarman bị bắt, đất nước rơi vào nội chiến, trên
tất cả các lãnh địa, hơn mười lãnh chúa tuyên bố độc lập và tự xưng vua, sau đó
tham gia xâm chiếm và áp đặt quyền lực lên các đối thủ”.
Sách Vương quốc Champa của
Lafont viết: “Nhờ một bi ký Mỹ Sơn bằng Phạn ngữ và Chăm ngữ mà người ta được
biết có hai vị hoàng tử không biết thuộc về dòng tộc nào, tên là Thang và Pang
tìm cách chấm dứt tình trạng hỗn loạn (…) Năm 1074 hoàng tử Thang lên nắm chính
quyền (…) ông ta tự phong vương cho mình với danh hiệu là Harivarman IV (…)
Harivarman IV quyết định về hưu trí bằng cách đưa con trai của mình tên Vak vừa
mới 9 tuổi, lên ngối ngôi vào năm 1080 dưới danh hiệu là Jaya Indravarman II.
Năm sau Harivarman IV băng hà”.
-- Sau khi Chế Củ bị Lý Thánh Tông bắt giải về Thăng Long,
ngài đã xin dâng 3 châu Địa Lý, Mi Linh, Bố Chính cho Đại Việt để đổi lấy tính
mạng. Trở về Chiêm Thành với sự đồng thuận của Thăng Long nên thời gian đầu
tình hình chưa đến mức tồi tệ.
-- Nhưng bước ngoặt xảy đến vào năm 1072 khi Lý Thánh Tông
băng hà. Không còn sự chống lưng của Thăng Long, các thế lực bất phục thành Phật
Thệ nổi dậy, cuộc nội chiến trở nên nghiêm trọng.
-- Nhận thấy tình hình Phật Thệ khó mà kiểm soát, trong lần đi
sứ năm 1073, Chiêm Thành trước là mừng Càn Đức lên ngôi, sau là báo tin cho
Thăng Long biết. Để trợ uy cho Chế Củ và cũng là phòng biến loạn từ phía nam,
Lý triều cử thái sư Lý Đạo Thành vào coi châu Nghệ An. Để nhắc nhở người Chiêm
về cuộc chiến năm 1069, Tả gián nghị đại phu đã cho dựng vị hiệu của Thánh
Tông.
-- Thế nhưng chính thể do Chế Củ thành lập đã không kiểm soát
được tình trạng nội chiến tại Chiêm Thành và ngài buộc phải đưa gia đình và 3
ngàn quân sang nương trú Đại Việt vào tháng giêng năm 1074.
-- Có 3 bằng chứng cho phép phỏng đoán như vậy, gồm: thứ nhất
là lời tâu của Lý Càn Đức và thứ hai là ghi chép của Tống sử mục năm thứ 9, giống
như là một bản thống kê của một vị quốc vương mới trình lên thiên triều và thứ
ba là ghi chép của Tống hội yếu tập cảo về vị quốc vương cũ khó có thể trở lại
làm quốc vương của Chiêm Thành.
-- Toàn thư cũng cho biết mùa xuân năm 1074 Chiêm Thành lại quấy
rối [nguyên văn là Chiêm Thành phục nhiễu biên] Theo như mô tả của Toàn thư thì
trước đây Chiêm Thành đã từng quấy nhiễu vùng biên giới, do Toàn thư không chép
rõ tháng nên có thể vào tháng giêng, khi Chế Củ chạy sang Thăng Long đã bị các
thế lực chống đối truy kích, khiến vùng biên giới trở nên căng thẳng.
-- Về phía Lý triều, liền cho Lý Đạo Thành làm Thái phó bình
chương quân quốc trọng sự. Có thể Thăng Long cũng đã sẵn sàng cho một cuộc chiến
tranh quy mô. Chúng ta không thể chắc Thăng Long có điều quân vào nam không,
nhưng có thể chắc chắn rằng sự kiện Lý Thường Kiệt đem binh đánh Chiêm Thành
vào tháng 8 năm 1076 (mà Toàn thư chép nhầm là năm 1075) chỉ là một cuộc thị uy
sức mạnh quân sự mà thôi.
-- Vì từ tháng 5/1076 Đại Tống đã có những động thái quân sự với
mục đích phản công Đại Việt đã tấn công 3 châu Ung Khâm Liêm trước đó. Nếu để xảy
ra cuộc chiến với 7 ngàn quân của Chiêm Thành thì hao tổn quân sự không phải nhỏ,
lại tốn thêm nhiều thời gian, tất sự chuẩn bị cho cuộc chống Tống sẽ kém đi.
-- Sự kiện Lý Thường Kiệt họa bản đồ 3 châu và đổi 2 châu Địa
Lý thành Lâm Bình, Ma Linh thành Minh Linh, cũng như chiêu mộ dân chúng đến ở,
cho thấy 3 châu phía bắc vùng Bình Trị Thiên thuộc Đại Việt cả trên danh nghĩa
và thực tế.
-- Việt sử lược cho biết các năm 1082, 1083, 1084, 1085, 1086,
1087, 1089, 1091 sứ Chiêm Thành sang cống, Tống sử cho biết năm 1092 Chiêm
Thành sai sứ sang thiên triều dâng biểu nói: nếu thiên triều đánh Giao Châu thì
xin xuất binh đánh úp.
-- Chiêm Thành tỏ rõ thái độ kháng Giao Châu nên năm 1092 và
1093 bỏ cống nên mùa xuân năm 1094 Thăng Long sai hàn lâm học sĩ Mạc Hiển Tích
sang sứ Chiêm Thành đòi lễ tuế cống, thấy rằng không thể cương với Giao Châu
nên vào mùa thu năm 1094 sứ Chiêm Thành sang cống.
-- Theo Việt sử lược các năm 1095, 1097, 1098, 1099, 1102
Chiêm Thành sai sứ sang cống.
2. Toàn thư chép: “Quí
Mùi [1103] Mùa đông tháng 10, người Diễn Châu là Lý Giác mưu làm phản. Giác trước
học được thuật lạ, có thể biến cây cỏ làm người, bèn chiêu tập những kẻ vô lại
chiếm cứ châu ấy, đắp thành làm loạn. Việc tâu lên, vua sai bọn Lý Thường Kiệt
đi đánh. Giác thua trốn sang Chiêm Thành, dư đảng đều bị dẹp yên. Chiêm Thành
cướp biên giới (...) Giáp Thân [1104] Mùa xuân tháng 2, sai Lý Thường Kiệt đi
đánh Chiêm Thành. Trước, Lý Giác chạy sang Chiêm Thành nói tình hình hư thực của
nước ta. Vua Chiêm Thành là Chế Ma Na nhân thế đem quân vào cướp, lấy lại 3
châu Địa Lý [Địa Lí đẳng tam châu] mà Chế Củ đã dâng. Đến đây, sai Lý Thường Kiệt
đi đánh, phá được, Chế Ma Na lại dâng nộp đất ấy”.
Việt điện u linh tập: “Vua
bèn sai ông thống lĩnh đại binh, phá được giặc ở các thành Ung Khâm Liêm, khắc
phục được ba châu bốn trại, bắt được tù binh, thu được của cải không biết bao
nhiêu mà kể. Năm Long Phù thứ nhất (1101) vua trao cho ông chức Nội thị phán sảnh
đô áp vệ, Hành điện nội ngoại đô tri sự. Mùa đông, ông đẹp yên giặc Lý Giác ở
Diễn Châu. Nhà Tống sang đánh báo thù vây hãm các châu Lục, Lược. Ông ra sức đắp
thành ở sông Như Nguyệt, lấy lại được Vũ Bình Nguyên. Quân ta thắng lợi trở về,
nhà vua lại khen thương lớn”.
-- Việt sử lược cũng như bia chùa Linh Xứng núi Ngưỡng Sơn
không thấy đề cập tới loạn Lý Giác, trong khi Việt điện u linh lại chép sự kiện
Lý thái úy dẹp loạn Lý Giác trước trận Như Nguyệt trong cuộc chống Tống, có khi
nào loạn Lý Giác ở Diễn Châu diễn ra vào tháng 8 năm 1076 không ? Xin không bàn
thêm.
-- Từ năm 1103 quan hệ cống nạp Việt Chiêm có lệ, đến những
năm 1124 người nước Chiêm Thành là bọn Ba Tư Bồ Đà La 30 người sang quy phụ, có
thể là hậu quả của cuộc binh biến nào đó chăng ?
3. Toàn thư chép: “Mậu
Thân [1128] Mùa xuân tháng giêng, ngày Giáp Dần, hơn 2 vạn người Chân Lạp vào
cướp bến Ba Đầu ở châu Nghệ An. Xuống chiếu cho Nhập nội thái phó Lý Công Bình
đem các quan chức đô cùng người châu Nghệ An đi đánh (...) Tháng 2, ngày Quý Hợi,
Lý Công Bình đánh bại người Chân Lạp ở bến Ba Đầu, bắt được chủ tướng và quân
lính (...) Thư báo thắng trận của Lý Công Bình đến kinh sư (...) Tháng 3 Lý
Công Bình đem quân về kinh sư, dâng tù 169 người (…) Tháng 8, người Chân Lạp
vào cướp hương Đỗ Gia ở châu Nghệ An, có đến hơn 700 chiếc thuyền. Xuống chiếu
sai bọn Nguyễn Hà Viêm ở Thanh Hoá và Dương Ổ ở châu ấy đem quân đánh, phá được
(...) Châu Nghệ An đệ tâu một phong quốc thư của nước Chân Lạp, xin sai người
sang sứ nước ấy. Vua không trả lời”.
Việt sử lược chép: “Năm
Mậu Thân [1128] Tháng 2 Chân Lạp đến cướp ở Nghệ An, vua sai thái phó Nguyễn
Bình Công đi đánh dẹp, bắt được tướng của nó rối về”.
Sách Vương quốc Champa của
Lafont viết: “Các quần thần trong triều đình nhận thấy rằng Jaya Indravarman II
vì tuổi chưa trưởng thành, không đủ khả năng để điều hành quốc gia, thành ra phải
đưa người chú của ông ta, tức hoàng tử Pang lên thay thế để lãnh đạo quốc gia
vào năm 1081, lấy vương hiệu là Pamarabodhisattva, một tên gọi mang ảnh hướng
phật giáo (…) Sau đó ông ta nhường lại ngôi cho người cháu là Jaya Indravarman
II vào năm 1086 (…) Indravarman II mất vào năm 1113 và được phong chức thánh hiệu
là Paramabuddhaloka. Cháu của ông ta là người nối ngôi vua với danh hiệu là
Harivarman”.
Tống sử chép: “Niên hiệu
Chính Hòa [1111-1118] cho quốc vương là Dương Bốc Ma Điệp làm kim tử quang lộc
đại phu (…) Năm Tuyên Hòa nguyên niên (1119) thăng làm kiểm hiệu tư không, kiêm
ngự sử đại phu, hoài viễn quân tiết độ sứ (…) Năm Kiến Viêm thứ 3 (1129) Dương
Bốc Ma Điệp sai sứ sang cống”.
Toàn thư chép: “Canh Tuất,
[Thiên Thuận] năm thứ 3 [1130] Tháng 3, người nước Chiêm Thành là Ung Ma, Ung
Câu sang quy phụ (...) Tháng 11, Chiêm Thành sang cống (…) Nhâm Tý [1132] Mùa
thu tháng 7, người nước Chiêm Thành là bọn Cụ Bàn trốn về nước, đến trại Nhật Lệ
bị người trại ấy bắt được, giải về kinh sư (...) Tháng 8, Chân Lạp và Chiêm
Thành đến cướp châu Nghệ An (...) Xuống chiếu cho Thái uý Dương Anh Nhĩ đem người
ở phủ Thanh Hóa và châu Nghệ An đi đánh quân Chân Lạp và Chiêm Thành, phá tan
(...) Lệnh thư gia châu Nghệ An là Trần Lưu dâng ba người Chiêm Thành. Trước
đây bọn người này thường ẩn nấp ở chổ hiểm yếu, bắt người châu Nghệ An đem bán
cho người nước Chân Lạp, Lưu đặt phục binh ở chổ ấy, bắt được đem dâng”.
Việt sử lược chép: “Năm
Canh Thân [1130] Chiêm Thành tới cống (…) Năm Giáp Dần [1134] Chân Lạp, Chiêm
Thành sang cống”.
--
Toàn thư chép: “Ất Mão
[1135] Tháng 2, hai nước Chân Lạp và Chiêm Thành sang cống (…) Đinh Tị [1137]
Mùa xuân tháng giêng, châu Nghệ An chạy trạm tâu việc tướng nước Chân Lạp là
Phá Tô Lăng cướp châu ấy. Xuống chiếu cho thái uý Lý Công Bình đem quân đi
đánh. Tháng 2, châu Nghệ An động đất, nước sông đỏ như máu. Công Bình sai Nội
nhân hỏa đầu Đặng Khánh Hương về Kinh sư đem việc ấy tâu lên. Công Bình đánh bại
người Chân Lạp”.
Việt sử lược: “Năm Bính
Thìn [1136] Mùa xuân tháng 2 có động đất ở châu Nghệ An, sông đỏ như máu (…)
tháng 9 (…) Tướng Chân Lạp là Tô Phá Lăng đến cướp châu Nghệ An, vua sai thái
phó Nguyễn Công Bình đi đánh bại được”.
Văn bia về thái úy Lý
công nước Đại Việt khắc: “Tháng giêng năm Thiên Chương Bảo Tự thứ 3 [1135] đang
lúc thiên hạ thanh bình, bốn bề yên tĩnh thì nước Văn Đan xâm phạm bờ cõi phía
nam. Vua sai thái úy và thái phó Lý Công Bình thống lĩnh 30 vạn quân, theo đường
biển tới xứ Âm Dã, quận Nhật Nam (…) khí thế như gió rung núi lở, quân giặc sợ
hãi kéo nhau chạy trốn, quân của thái úy đuổi theo chém tướng bắt tù binh, đuổi
đến Vụ Ôn thì trở về. Cũng trong năm ấy, thái úy vâng mệnh vua đi đánh bọn Sơn
Liêu vì chúng cậy núi non hiểm trở không chịu vào chầu” [Sách Văn bia Hán Nôm
Việt Nam của tác giả Đinh Khắc Thuân]
Ghi chú 10 viết: “Văn
Đan tức Vạn Tượng, tên nước ở phía tây biên giới nước ta”.
Ghi chú 14 viết: “Vụ Ôn
tên đất thuộc miền nam trung bộ ngày nay”
Ghi chú 15 viết: “Sơn
Liêu chỉ các dân tộc ít người ở rẻo cao mạn tây nam nước ta”
--
Sách Vương quốc Champa của
tác giả Lafont viết: “Người thừa kế vua Harivarman V là một vị thái tử
(Yuvaraja) lên ngôi vào năm 1139 với danh hiệu là Jaya Indravarman III [Sau năm
1143] Indravarman III phải đối phó với cuộc tấn công của Campuchia [và] thủ đô
Vijaya của Champa lại lọt vào tay của quân đội Khmer và vua Jaya Indravarman
III tử trận trong cuộc chiến [1145 – Maspero] Trong khi thủ đô Vijaya bị chiếm
đóng (…) Jaya Rudravarman IV được tấn phong làm vua Champa, nhưng sau đó ông ta
và đoàn tùy tùng phải chạy sang Panduranga lánh nạn [và] băng hà vào năm 1147
mang thánh hiệu là Paramabrahmaloka (…) Sau đó các quan chức Champa đang lánh nạn
tại tiểu vương quốc Panduranga tôn người con trai của ông lên nối ngôi lấy danh
hiệu là Jaya Harivarman I (…) Vua Campuchia ra lệnh cho đoàn quân viễn chinh ở
Vijaya với sự hỗ trợ của quân đội Champa ở miền bắc kéo quân sang miền nam tấn
công vua Jaya Harivarman I, nhưng không đạt được kết quả (…) Vua Campuchia là
Suryavarman II tự phong cho hoàng tử Harideva, tức là người em vợ của mình, lên
làm vua Champa ở miền bắc, đóng đô tại Vijaya (…) Vua Harivarman I nghe tin, liền
xuất quân tấn công miền bắc, giết chết hoàng tử Campuchia là Harideva và làm chủ
tình hình Vijaya, sau đó Harivarman I tự xưng là vua Champa vào năm 1149”.
Sách Le Royaume De
Champa của tác giả Maspero viết: “Jaya Harivarman I khởi bình và giao chiến với
[?] Cankara và những người Campuchia, cùng quân đội của họ, kết quả họ bại năm
1148”.
Việt sử lược chép: “Năm
Mậu Thìn [1148] Mùa thu tháng 9 Chân Lạp tới cướp châu Nghệ An”.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét