Thứ Tư, 2 tháng 1, 2019

VIỆT CHIÊM TRƯỜNG TRẬN TÂN BIÊN (PHẦN 6)


1. Toàn thư chép: “Đinh Dậu [1177] Mùa xuân tháng 3, Chiêm Thành đến cướp châu Nghệ An (...) Giáp Thìn [1184] Mùa xuân tháng 3, nước Chiêm Thành sang cống”.
Sách Vương quốc Champa của tác giả Lafont viết: “Nhờ sự giúp đỡ của một viên thuyền trưởng người Trung Hoa, vua Jaya Indravarman IV đưa quân đi ngược dòng sông Mekong và Tonle Sap để tiến đến Biển Hồ vào năm 1177”.
Tống sử chép: “Năm sau [1172] (Chiêm Thành) lại đến, Quỳnh Châu chặn lại, người Chiêm tức giận thả sức cướp bóc rồi về (…) Thuần Hi năm thứ tư [1177] Chiêm Thành đem quân thuyền tập kích Chân Lạp, tiến sát tới tận quốc đô”.
-- Tháng 7/1175 Lý Anh Tông băng, con là Long Trát lên ngôi, người Chiêm không những không sang cống, mà tháng 3/1177 còn sang cướp châu Nghệ An.
-- Thứ nhất, đây chỉ là một cuộc thăm dò quân sự nhân Thăng Long thay đổi người lãnh đạo, vì vào năm 1177 Vijaya đang tiến hành chinh phạt Angkor.
-- Thứ hai, vì sao lại là châu Nghệ An ? Phép thường, người Chiêm phải cướp 3 châu cực nam là Bố Chính, Minh Linh, Lâm Bình mới phải, vì sao lại tiến sâu vào nội địa để cướp, trong khi mục đích cướp chỉ là để thăm dò.
-- Rõ ràng là khả năng thủy chiến của Chiêm Thành khá mạnh, có thể cướp bóc thả sức Quỳnh Châu, lại có thể tiến tới Biển Hồ, vậy thì vào cướp châu Nghệ An sẽ khá đơn giản.
Việt sử lược chép: “Giáp Dần [1194] Chiêm Thành, Chân Lạp tới cống”.
Toàn thư chép: “Mậu Ngọ [1198] Sứ Chiêm Thành sang cống và cầu phong (...) Kỷ Mùi [1199] Mùa đông, tháng 10, vua ngự đến phủ Thanh Hóa bắt voi. Sai sứ sang phong vua nước Chiêm Thành”.
-- Theo sách Vương quốc Champa thì vào năm 1177 vua Jaya Indravarman IV đã tấn công thành Angkor, giết được vua của Chân Lạp. Vị hoàng tử của Campuchia đã xua quân phản chiến, giải phóng Angkor khỏi sự chiếm đóng của Champa vào những năm 1180-1181, rồi lên ngôi vua mang vương hiệu là Jayavarman VII.
-- Tại Vijaya vua Indravarman IV truyền ngôi cho Jaya Indravarman On Vatuv. Năm 1190 vua Indravarman OV đem quân tấn công Chân Lạp. Vua Khmer Jayavarman VII cho vị hoàng tử gốc Champa là Vidhyanandana đem quân tấn công Vijaya vào năm 1191 và bắt sống được Indravarman OV đưa về Angkor.
-- Sau cuộc chiến, phía nam Chiêm Thành do Vidhyanandana kiểm soát, phía bắc Chiêm Thành do hoàng tử người Khmer tên là In kiểm soát. In là anh rể của vua Khmer Jayavarman VII và lấy danh hiệu là Suryajayavarmadeva.
-- Vào năm 1193 người Chiêm nổi dậy, đuổi In khỏi Vijaya và tôn vị hoàng tử gốc Champa là Rasupati lên ngôi vua với danh hiệu Jaya Indravanmadeva. Jayavarman VII cử đoàn quân cùng Indravarman OV sang Vijaya. Vidhyanandana từ Panrang đưa binh lính đến hợp với đoàn quân của Angkor tấn công Rasupati.
-- Sau khi giết được Rasupati, Vidhyanandana tấn công Indravarman OV, Indravarman OV chạy sang tiểu quốc Amaravati nhưng bị Vidhyanandana truy sát và giết chết. Jayavarman VII đưa quân sang đánh Vijaya vào năm 1193 và 1194 nhưng đều thất bại.
-- Vidhyanandana thống nhất Champa, có vương hiệu là Suryavarman và cử sứ sang Thăng Long vào năm 1194. Năm 1198 cử sứ sang Thăng Long và xin cầu phong. Năm 1199 Lý Cao Tông chính thức công nhận Suryavarman là vua Chiêm Thành.
Toàn thư chép: “Quý Hợi [1203] Mùa thu tháng 7, Điện tiền chỉ huy sứ tri châu Nghệ An là Đỗ Thanh và châu mục là Phạm Diên tâu rằng: "Vua nước Chiêm Thành là Bố Trì bị chú là Văn Bố Điền đuổi, nay đem cả vợ con đến ngụ ở cửa biển Cơ La, ý muốn cầu cứu". Tháng 8, vua sai Đàm Dĩ Mông và Đỗ An đi liệu tính việc ấy. Sắp đến cửa biển Cơ La, Đỗ An nói: "Kẻ kia đem quân đến đây, lòng nó khó tin được. Tục ngữ có câu: "Lỗ kiến có thể vỡ đê, tấc khói có thể cháy nhà". Nay Bố Trì há phải là lỗ kiến, tấc khói mà thôi đâu". Dĩ Mông nói lại ý ấy với Thanh và Diên, bảo phải phòng bị. Bọn Thanh nói: "Kẻ kia vì hoạn nạn đến xin cầu cứu, còn phải nghi ngờ gì ?". Dĩ Mông giận, đem quân về. Thanh và Diên cùng mưu đánh úp Bố Trì để làm kế tự bảo toàn. Mưu tiết lộ, thành ra bị Bố Trì giết. Quân Nghệ An tan vỡ, chết không xiết kể. Bố Trì thả sức cướp bóc rồi về”.
Việt sử lược chép: “Quý Hợi [1203] Mùa thu tháng 7, quan coi châu Nghệ An là điện tiền chỉ huy sứ tri Đỗ Thanh và châu mục là Phạm Diên dâng thư về triều nói rằng: Chúa Chiêm Thành là Bố Trì bị chú là Bố Do đuổi, đem hơn 200 chiếc thuyền bị lan chở vợ con đến ngụ ở cửa biển Cơ La, muốn cầu cứu ta. Tháng 8, vua sai phụ quốc thái phó Đàm Dĩ Mông và khu mật sứ Đỗ An đi bàn bạc công việc. Dĩ Mông đến Cơ La, Đỗ An nói rằng: Bố Trì có 200 chiến thuyền, cái dã tâm của lang sói không thể tin cả được. Ngạn ngữ có câu rằng: "Lỗ kiến có thể vỡ đê, tấc khói có thể cháy nhà". Nay Bố Trì há chỉ là lỗ kiến, tấc khói hay sao, xin ông suy nghĩ kỹ. Dĩ Mông nói lại ý ấy với Thanh và Diên, bảo phải phòng bị. Bọn Thanh, Diện nói rằng: Kẻ kia vì hoạn nạn đến xin cầu cứu, nên có lòng thành thương xót, chứ này lại tỏ ý nghi ngờ, chẳng là không nên sao ? Dĩ Mông giận, đem quân về. Thanh và Diên nói với nhau rằng: Lũ chúng ta đã trái ý phụ quốc, tất có hậu hoạn, chi bằng hãy đi đánh Bố Trì để làm kế tự toàn. Mưu đó tiết lộ ra, bị Bố Trì biết. Bố Trì sợ hãi bèn bảo với quân lĩnh rằng: Lũ ta gặp nạn mà phải đến cầu cứu đại quốc, nó đã không có tình nghĩa thương xót láng giếng, lại toan bắt tù ta, thật đau đớn biết chừng nào ? Nhân rình lúc sơ hở để dụ Thanh, Diên. Thanh, Diên sai người Nghệ An buộc thuyền vào thuyền bị lan của Chiêm Thành để coi giữ. Ban đêm người Chiêm đem những bó đuốc tre có để gậy nhọn giấu trong thuyền. Một đêm, quân canh gác sợ hãi trở dậy, không biết làm thế nào, đều nhảy xuống nước, bị Chiêm Thành giết và bị chết đuối đến hơn 200 người. Quân của Thanh, Diên tan vỡ còn Bố Trì thống suất bộ chúng chạy về nước nó”.
Sách Vương quốc Champa của tác giả Lafont viết: “Năm 1203 Suryavarman bị phế truất bởi một vị thái tử Champa tên là Dhanapatigrama, cũng là một nhân vật từng sinh sống trong triều đình Angkor và rất trung thành với vua Campuchia”.
-- Cả Việt sử lược và Toàn thư đều chép về sự kiện tháng 7/1203 chúa Chiêm là Bố Trì đem tông tộc đến ngụ tại biển Cơ La, xin Thăng Long trợ giúp. Đàm Dĩ Mông và Đỗ An được cử vào châu Nghệ An để bàn bạc với Đỗ Thanh và Phạm Diên.
-- Mông và An có bất đồng với Thanh và Diên nên Mông và An trở lại Thăng Long. Như vậy Mông và An không đem quân vào châu Nghệ An nên mới buộc phải về.
-- Thanh và Diên biết rằng làm phật ý phụ quốc thái phó thì sẽ khó mà yên được nên có ý đánh Bố Trì. Nhưng không rõ vì sao kế hoạch này lại bị tiết lộ ra, có khi nào trong quá trình chuẩn bị thì người liên lạc giữa Bố Trì và Thanh-Diên biết được nên báo cho chúa Chiêm không ?
-- Nếu đã có ý đánh thì sao không đánh, mà lại để Bố Trì dụ, buộc thuyền của người Việt vào thuyền bị lan của người Chiêm ?
-- Theo như ghi chép của Việt sử lược thì số lượng quân Đại Việt chết đến 200 người và thế trận bị tan, như thế xem ra quân của Thanh-Diên cũng không nhiều. Bố Trì có 200 thuyền, trên thuyền có cả phụ nữ trẻ em, thế ra quân của 2 bên cũng ngang nhau.
-- Toàn thư cho biết Thanh-Diên bị chết trong trận chiến đó và người Chiêm thả sức cướp bóc, nhưng chắc chắn Thanh-Diên không thể nào ở lại những chiếc thuyền của người Việt buộc vào thuyền bị lan của người Chiêm được. Nên sau khi đánh xong quân trên thuyền, người Chiêm đã tiến vào bờ và tấn công Thanh-Diên, sau đó thì cướp bóc và rút quân.
-- Trong lúc bàn bạc với Mông-An thì Thanh-Diên có nói: nên có lòng thành thương xót, cho thấy Thanh-Diên có cái nhân, hẳn vì thế mà tuy có kế hoạch đánh Bố Trì nhưng lưỡng lự mã không quyết. Có thể Bố Trì đã dụ rằng: nếu không tin tôi sang hàng là thật, xin buộc thuyền bị lan vào thuyền của các ngài, để các ngài có thể kiểm soát. Người có lòng nhân thường không đề phòng, cứ nghĩ làm như thế có thể kiểm soát được 200 chiếc thuyền của Chiêm Thành, nào ngờ.
-- Cũng phải thừa nhận là Bố Trì giỏi. Chỉ là nếu Thanh-Diện đã sẵn sàng buộc thuyền của mình vào thuyền bị lan, thì nếu Bố Trì không ra tay, có thể cuộc diễn đã khác.
Toàn thư chép: “Bính Tý [1216] Chiêm Thành và Chân Lạp đến cướp châu Nghệ An, châu bá là Lý Bất Nhiễm đánh phá được (…) Mậu Dần [1218] Chiêm Thành và Chân Lạp đến cướp châu Nghệ An, Lý Bất Nhiễm đánh tan được, thăng tước hầu, ban thực ấp 7.500 hộ, thực phong 1.500 hộ”.
Việt sử lược chép: “Mậu Thân [1208] Vua lấy Phạm Du coi việc quân châu Nghệ An. Du chiêu tập bọn vong mệnh, tụ tập bọn giặc cướp gọi là hậu nhân, ngang nhiên cướp bóc, không sợ hãi gì cả (…) Mậu Dần [1218] Lấy quan nội hầu Lại Linh coi việc châu Nghệ An”.
-- Theo ghi chép của Toàn thư thì vào năm 1216 và năm 1218 cả người Chiêm Thành và Chân Lạp sang cướp châu Nghệ An và đều bị Lý Bất Nhiễm đánh bại. Toàn thư chép việc Nhiễm đánh phá được Chiêm Thành năm 1218 là sau tháng 10, trong khi Việt sử lược chép là cho Lại Linh coi châu Nghệ An vào trước tháng 7/1218. Nhưng đến tháng 4/1220 Lại Linh đem quân đánh Hà Cao tại Quy Hóa, thế xem ra việc coi châu Nghệ An chỉ là trên danh nghĩa. Vì thế không bác bỏ được ghi chép của Toàn thư về 2 lần tấn công của người Chiêm đối với châu Nghệ An.
2. Toàn thư chép: “Mậu Tý [1228] Mùa đông tháng 10, nước Chiêm Thành sang cống (…) Nhâm Dần [1242] Mùa đông tháng 10, Chiêm Thành sang cống (…) Nhâm Tý [1252] Mùa xuân tháng giêng, vua thân đi đánh Chiêm Thành, sai Khâm Thiên Đại vương Nhật Hiệu làm lưu thủ. Chiêm Thành từ khi nhà Lý suy yếu, thường đem thuyền nhẹ đến cướp bóc dân cư ven biển. Vua lên ngôi, lấy đức vỗ về, sai sứ sang dụ, tuy họ có thường sang cống, nhưng lại đòi xin lại đất cũ và có ý dòm ngó. Vua giận, nên có viễc thân chinh này. Mùa đông tháng 12, bắt được vợ của chúa Chiêm Thành là Bố Da La và nhiều thần thiếp, nhân dân của y rồi về. Có thuyết nói bắt được chúa Chiêm Thành Bố Da La là sai. Nếu quả như thế thì Lê Văn Hưu làm Sử ký sao không dẫn để ca ngợi cùng với việc bắt được Sạ Đẩu. Nay theo Phu Tiên là phải”.
Sách Vương quốc Champa của tác giả Lafont viết: “Lên ngôi vào năm 1226, hoàng tử dòng Ansaraja lấy vương hiệu là Jaya Paramesvaravarman II (…) Sau ngày từ trần mà người ta không biết rõ ngày tháng, người em của ngài lên nối ngôi, có thể vào khoảng giữa năm 1230-1243 lấy danh hiệu là Jaya Indravarman VI (…) Năm 1257 Jaya Indravarman VI bị ám sát bởi người cháu tên là Harideva (…) Ngài được tấn phong lên làm vua Champa vào năm 1266 với vương hiệu là Indravarman V”.
-- Như thế sau khi lên ngôi năm 1226, Jaya Paramesvaravarman II đã cử sứ sang Thăng Long để đặt quan hệ ngoại giao. Năm 1242 Chiêm Thành lại cử sứ sang, có thể vị sứ giả này nhận lệnh từ Jaya Indravarman VI, nếu đúng thì ngài lên ngôi gần với năm đó, có thể cùng hoặc trước một năm.
-- Toàn thư tuy không chép cụ thể những lần quấy nhiều miền ven biển Đại Việt dưới thời Jaya Indravarman VI, nhưng Toàn thư có nói đại lược, vua Lý Thái Tông cũng nhiều lần yêu cầu Phật Thệ dừng việc cướp bóc lại, nhưng Vijaya yêu cầu Thăng Long trả lại 3 châu phía bắc Bình Trị Thiên.
-- Căng thẳng được giải quyết thông qua việc Trần Cảnh thống lĩnh quân đội nam phạt. Thật đáng tiếc là Toàn thư không chép cụ thể cuộc nam chinh, nhưng với việc Thái Tông xuất binh vào tháng 1/1252 và đến tháng 12/1252 mới bắt được thần thiếp của chúa Chiêm, rồi rút quân luôn.
-- Cho thấy cuộc nam phát không hoàn toàn được như ý nguyện, Thăng Long mất rất nhiều thời gian nhưng kết quả đạt được không nhiều. Còn Vijaya tuy không chống được đối phương nhưng chưa phải là thất bại. Có thể Bố Da La đã rút lui, tiến hành chiến tranh du kích. Quân đội phương bắc lại không được phép đồn trú lâu dài tại Chiêm Thành nên buộc phải rút lui.
Toàn thư chép: “Nhâm Tuất [1262] Chiêm thành sang cống (...) Bính Dần [1266] Mùa xuân tháng giêng, sứ thần Chiêm Thành là Bố Tin, Bố Hoằng, Bố Đột đến cống (...) Đinh Mão [1267] Mùa xuân tháng 2, Chiêm Thành sang cống (…) Kỷ Tị [1269] Mùa xuân tháng 2, Chiêm Thành dâng voi trắng (…) Canh Ngọ [1270] Mùa hạ tháng 4, Chiêm Thành sang cống (...) Đinh Sửu [1277] Mùa xuân tháng 2, vua thân chinh đánh người Man, Lạo ở động Nẫm Bà La, bắt sống bộ đảng hơn 1.000 người giải về (...) Kỷ Mão [1279] Chiêm Thành sai Chế Năng, Tra Diệp sang cống. Bọn Chế Năng xin ở lại làm nội thần, vua không nhận”.
-- Trên là những sự kiện diễn ra trong quan hệ Việt Chiêm dưới thời Indravarman V. Khoảng thời gian sau đó, Việt Chiêm trở thành đồng minh trong cuộc chiến chống Nguyên Mông. Cụ thể diễn biến xin xem sách Cuộc kháng chiến chống xâm lược Nguyên Mông thế kỷ XIII của 2 tác giả Hà Văn Tấn và Phạm Thị Tâm.
Toàn thư chép: “Quý Tị [1293] Mùa xuân tháng 3 ngày mồng 9, vua nhường ngôi cho hoàng thái tử Thuyên (…) Chiêm Thành sang cống (...) Tân Sửu [1301] Tháng 2, Chiêm Thành sang cống. Tháng 3, Thượng hoàng vân du các nơi, sang Chiêm Thành (…) Mùa đông tháng 11, Thượng hoàng từ Chiêm Thành trở về (…) Quý Mão [1303] Lấy Đoàn Nhữ Hài làm Tham tri chính sự. Trước đây, sứ nước ta tới Chiêm Thành, đều lạy chúa Chiêm trước, rồi sau mới mở chiếu thư. Đến khi Nhữ Hài tới, liền bưng ngay chiếu thư để lên trên án và nói với chúa Chiêm: "Từ khi sứ thiên triều mang chiếu thư của thiên tử sang, xa cách ánh sáng lâu ngày, nay mở chiếu thư, thực như trông thấy mặt thiên tử, tôi phải lạy chiếu thư đã, rồi mới tuyên đọc sau". Rồi lập tức hướng vào tờ chiếu mà lạy. Lúc ấy, chúa Chiêm đứng bên cạnh, lạy thế không khỏi có chút chưa ổn, nhưng lấy cớ mà lạy chiếu thư thì về lý là thuận, mà sứ tiết cũng không phải khuất. Hôm sau, Nhữ Hài treo bảng cấm buôn bán ở Tỳ Ni (bến cảng của Chiêm Thành, nơi tụ tập các thuyền buôn) tuyên đọc xong, treo bảng lên, lại gọi viên coi cảng đến bảo: "Chỗ này người buôn bán tụ họp phức tạp, lại là bến tàu xung yếu, khó giữ gìn, sứ thần về rồi, cất ngay bảng đi, đừng để mất". Ý ông cho rằng Chiêm Thành tuy đã thần phục, nhưng thực ra chưa chịu nội phụ, bảng cấm rốt cục cũng bị bỏ đi, cho nên nói trước như vậy, không để tự họ làm như thế. Sau này, đi sứ Chiêm Thành, không lạy chúa Chiêm là bắt đầu từ Nhữ Hài. Khi về nước, vua rất khen ngợi ông và quyết ý dùng vào chức to, cho nên có lệnh này”.
Sách Vương quốc Champa của tác giả Lafont viết: “Sau khi Indravarman V băng hà vào năm 1287, người con trai của ngài là hoàng tử Harijit lên ngôi vua với danh hiệu Jaya Simhavarman III. Vị vua này đã xây dựng ngôi đền Yang Prong ở cực bắc của Darlac, điều này chứng tỏ rằng dân cư khu vực Tây Nguyên thời đó nằm trong biên giới chính trị của vương quốc Champa. Ngài cũng kết hôn với công chúa của vương quốc Java (…) Jaya Simhavarman III mất vào năm 1307 vì tuổi già”.
-- Qua nhận định của Đoàn Nhữ Hải chúng ta biết rằng Chiêm Thành tuy thuần phục nhưng chưa chịu nội phụ. Đoàn Nhữ Hải có lẽ được trọng dụng từ năm 1298 sau việc Hải giúp Anh Tông làm bài biểu dâng lên Nhân Tông.
-- Vào tháng 2/1301 sứ Chiêm Thành sang Thăng Long, thì đến tháng 3/1301 thượng hoàng Trần Nhân Tông sang Champa, đây là chuyến ngoại giao rất đặc biệt, mà chưa từng có trong lịch sử Việt Chiêm (xin bàn chi tiết trong bài viết khác).
Toàn thư chép: “Giáp Thìn [1304] Tháng 3, Sư Du Già nước Chiêm sang ta, chỉ ăn sữa bò (…) Ất Tị [1305] Tháng 2, Chiêm Thành sai Chế Bồ Đài và bộ đảng hơn trăm người dâng hiến vàng bạc, hương quý, vật lạ làm lễ vật cầu hôn. Các quan trong triều đều cho là không nên, duy có Văn Túc Vương Đạo Tái chủ trương bàn việc đó, Trần Khắc Chung tán thành, việc bàn mới quyết (...) Bính Ngọ [1306] Mùa hạ tháng 6, gả công chúa Huyền Trân cho chúa Chiêm Thành Chế Mân (...) Trước đây, Thượng hoàng vân du sang Chiêm Thành, đã hứa gả rồi. Các văn sĩ trong triều ngoài nội nhiều người mượn chuyện vua Hán đem Chiêu Quân gả cho Hung Nô làm thơ, từ bằng quốc ngữ để châm biếm việc đó. Sử thần Ngô Sĩ Liên nói: Ngày xưa, Hán Cao hoàng vì nước Hung Nô nhiều lần làm khổ biên cương, mới lấy con gái nhà dân làm công chúa gả cho Thiên Vu. Kết hôn với người không cùng giống nòi, các tiên nho đã từng chê trách, song dụng ý là muốn binh yên, dân nghỉ, thì còn có thể nói được. Nguyên Đế thì vì Hô Hàn sang chầu, xin làm rể nhà Hán, nên lấy Vương Tường mà ban cho, cũng là có cớ. Nhân Tông đem con gái gả cho chúa Chiêm Thành là nghĩa làm sao ? Nói rằng nhân khi đi chơi đã trót hứa gả, sợ thất tín thì sao không đổi lại lệnh đó có được không ? Vua giữ ngôi trời mà Thượng hoàng đã xuất gia rồi, vua đổi lại lệnh đó thì có khó gì, mà lại đem gả cho người xa không phải giống nòi để thực hiện lời hứa trước, rồi sau lại dùng mưu gian trá cướp về, thế thì tín ở đâu (…) Đinh Mùi [1307] Mùa xuân tháng giêng, đổi hai châu Ô, Lý thành châu Thuận và châu Hoá. Sai Hành khiển Đoàn Nhữ Hài đến vỗ yên dân hai châu đó (...) Trước đấy chúa Chiêm Thành Chế Mân đem đất hai châu đó làm lễ vật dẫn cưới, nhưng người các thôn La Thuỷ, Tác Hồng, Đà Bồng không chịu theo. Vua sai Nhữ Hài đến tuyên dụ đức ý [của nhà vua] chọn người trong bọn họ trao cho quan tước, lại cấp ruộng đất, miễn tô thuế 3 năm để vỗ về (...) Mùa hạ tháng 5, chúa Chiêm Thành Chế Mân chết (...) Mùa thu tháng 9, thế tử Chiêm Thành Chế Đa Da sai sứ thần Bảo Lộc Kê sang dâng voi trắng. Mùa đông tháng 10, sai Nhập nội hành khiển thượng thư tả bộc xạ Trần Khắc Chung, An phủ Đặng Văn sang Chiêm Thành đón công chúa Huyền Trân và thế tử Đa Da về. Theo tục lệ Chiêm Thành, chúa chết thì bà hậu của chúa phải vào giàn thiêu để chết theo. Vua biết thế, sợ công chúa bị hại, sai bọn Khắc Chung, mượn cớ là sang viếng tang và nói với [người Chiêm]: “Nếu công chúa hỏa táng thì việc làm chay không có người chủ trương, chi bằng ra bờ biển chiêu hồn ở ven trời, đón linh hồn cùng về, rồi sẽ vào giàn thiêu”. Người Chiêm nghe theo. Khắc Chung dùng thuyền nhẹ cướp lấy công chúa đem về, rồi tư thông với công chúa, đi đường biển loanh quanh chậm chạp, lâu ngày mới về đến kinh đô. Hưng Nhượng Đại Vương ghét lắm, mỗi khi thấy Khắc Chung thì mắng phủ đầu: “Thằng này là điểm chẳng lành đối với nhà nước. Họ tên nó là Trần Khắc Chung thì nhà Trần rồi mất về nó chăng”. Khắc Chung thường sợ hãi né tránh”.
-- Chúng ta không biết hết các hoạt động của phật hoàng Trần Nhân Tông lúc vân du Chiêm Thành, nhưng có thể chắc chắn một việc mà Toàn thư có chép mục năm 1306 là thượng hoàng đã hứa gả công chúa Huyền Trân cho chúa Chế Mân.
-- Sử gia Ngô Sĩ Liên cho rằng việc kết hôn với người không cùng giống nòi, các tiên nho đã từng chê trách, cớ sao thượng hoàng lại làm, nếu biện rằng phật hoàng đã trót hứa, đổi lại sẽ thất tín, nhưng mà vua giữ ngôi trời mà thượng hoàng đã xuất gia rồi, nên đổi lại lệnh thì có khó gì, hơn nữa đã đem gả cho người, sau lại dùng mưu gian trá cướp về, thì tín ở đâu ?
-- Tác giả của Toàn thư bàn thế, ấy là chưa rõ nguồn cơn! Phật hoàng Trần Nhân Tông là người thế nào, có thể trót lỡ hứa sao ? Lại thêm, việc gả công chúa Huyền Trân trong triều vị nào cũng phản đối, mà sao Văn Túc vương Đạo Tái lại chủ trương. Văn Túc vương lại là nhân vật văn học nhất thời đó, lẽ nào không hiểu đạo lý trên.
-- Toàn thư mục năm 1294 chép sự kiện khá thú vị, đó là việc con trai của thái sư Trần Quang Khải là Văn Túc vương Đạo Tái được thượng hoàng ưu ái hơn các em thúc bá khác. Toàn thư còn chép lại việc sau làm chứng cớ: “Thượng hoàng đến Vũ Lâm vào chơi hang đá, cửa núi đá hẹp, thượng hoàng ngự chiếc thuyền nhỏ, Tuyên Từ thái hậu ngồi đằng đuôi thuyền, gọi Văn Túc vương lên mũi thuyền, chỉ để một người chèo thuyền thôi. Đến khi thượng hoàng xuất gia, sắp ra đi, mời Đạo Tái vào điện Dưỡng Đức cung Thánh Từ cho ngồi ăn các món hải vị (…)  Tin yêu, quý mến Đạo Tái đến như vậy, định dùng ông vào chức to, nhưng trời không cho sống lâu”.
-- Nên chủ trương của Văn Túc vương Đạo Tái chính là mục đích của phật hoàng Trần Nhân Tông.
-- Đất đai chính là tham vọng của hầu hết các vị hoàng đế, nếu chúa Chiêm muốn cưới công chúa nhà Trần, chắc hẳn ngài không muốn đem đất đai làm lễ vật. Nhưng rồi trong danh sách lễ vật có 2 châu Ô và Lý. Rõ ràng nó không thể nào là chủ định ban đầu của Chế Mân, mà là ngỏ ý của phật hoàng.
-- Vào tháng 2/1305 sứ Chiêm Thành dâng lễ vật cầu hôn, đến tháng 6/1306 công chúa Huyền Trân được gả cho chúa Chế Mân. Có thể cũng vào tháng 6/1306 Thăng Long tiếp quản 2 châu Ô và Lý từ Phật Thệ. Nhưng người các thôn La Thuỷ, Tác Hồng, Đà Bồng không chịu, Trần triều sai Đoàn Nhữ Hài đến tuyên dụ, rồi chọn người trong bọn họ trao cho quan tước, lại cấp ruộng đất, miễn tô thuế 3 năm để vỗ về. Tháng 1/1307 Thăng Long đổi châu Ô thành châu Thuận và châu Lý thành châu Hóa.
-- Từ cuối triều Lý, Chiêm Thành tương đối độc lập với Đại Việt, sau cuộc chiến chống Nguyên Mông, mối quan hệ giữa Thăng Long và Phật Thệ khá gắn bó, song như Đoàn Nhữ Hải nhận định được Toàn thư chép tại mục năm 1303 là tuy đã thần phục, nhưng thực ra chưa chịu nội phụ.
-- Lại thêm, qua lời bàn của Ngô sử gia, chúng ta nhận thấy trong quan niệm của người phương bắc thì người phương nam là man di. Vì thế với vị trí của chúa Chiêm nếu được kết hôn với công chúa của Thăng Long thì sẽ là sự tôn vinh rất đặc biệt. Nó nâng tầm Vijaya trong mối quan hệ với Chân Lạp và Java. Vì thế mà Chế Mân sẵn lòng dâng 2 châu Ô và Lý.
-- Sau các cuộc tấn công của Nguyên Mông vào những năm 1284 – 1289 không đạt được kết quả, thì năm 1293 người phương bắc lại chuẩn bị cho cuộc nam tiến, nhưng kế hoạch bị dừng lại do cái chết của Hốt Tất Liệt vào năm 1294. Nhưng không ai vào thời điểm đó có thể khẳng định người Nguyên sẽ không động binh với phương nam thêm lần nữa, do đó việc củng cố mối quan hệ với các nước phía nam đối với Thăng Long là hết sức cần thiết.
-- Vùng Bình Trị Thiên gồm 5 châu, trong đó 3 châu thuộc Đại Việt là Bố Chính, Minh Linh, Lâm Bình và 2 châu thuộc Chiêm Thành là Ô, Lý. Vùng đất này phía bắc là dãy Hoành Sơn, phía nam là đèo Hải Vân, nội trong vùng đi lại khá thuận tiện. Vì thế nếu như người Chiêm có ý đánh 3 châu cực nam của Đại Việt thì họ rất dễ thực hiện, vì người Champa có để điều binh và đồn trú tại 2 châu Ô Lý, sau đó thăm dò tình hình và tấn công.
-- Nhưng nếu đẩy ranh giới của người Chiêm Thành về phía nam đèo Hải Vân thì nếu họ muốn tấn công Đại Việt cũng sẽ gặp khó khăn hơn rất nhiều. Chí ít là trong việc sử dụng voi trong chiến trận. Vì thế việc Thăng Long có thể kiểm soát được 2 châu Ô và Lý của Chiêm Thành có ý nghĩa rất lớn trong chiến lược giữ yên phía nam.
-- Nhưng cái chết của chúa Chiêm Thành là Chế Mân vào tháng 5/1307 đã ảnh hưởng rất lớn tới kế hoạch của phật hoàng, có giả thuyết cho rằng công chúa Huyền Trân liên quan tới cái chết của chúa Chiêm, việc Chế Mân chết sẽ khiến cho sự kiểm soát 2 châu Ô và Lý của Thăng Long trở nên khó khăn hơn, nói cách khác Trần triều là thế lực rất không mong muốn việc đó. Xin bàn về công chúa Huyền Trân trong bài viết khác.

VIỆT CHIÊM TRƯỜNG TRẬN TÂN BIÊN (PHẦN 5)


1. Theo như ghi chép của Toàn thư thì vào tháng 12/1127 Lý Nhân Tông mất, đến tháng 1/1128 có hơn 2 vạn người Chân Lạp đã tổ chức cướp bến Ba Đầu ở châu Nghệ An. Trong khoảng thời gian 1 tháng, kể từ khi thông tin Nhân Tông mất được phát đi từ Thăng Long, cho tới việc người Chân Lạp chuẩn bị thuyền chiến quân lương, rồi vượt biển Chiêm Thành tấn công bến Ba Đầu là không thể. Vì thế cho phép chúng ta phỏng đoán vào thời điểm Lý Nhân Tông mất, người Chân Lạp đã lưu trú tại gần khu vực biên giới phía nam.
-- Vào năm 1076 Lý triều có đổi châu Địa Lý thành châu Lâm Bình, châu Ma Linh thành châu Minh Linh. Thế nhưng người Chân Lạp lại vào cướp châu Nghệ An chứ không phải 3 châu Bố Lâm Minh, xem ra người Chân Lạp đã kiểm soát được 3 châu phía nam rồi.
-- Việt sử lược chép việc Chân Lạp vào cướp xảy ra trong tháng 2/1128, nhưng có thể sách đó chép gộp, vì như Toàn thư chép rõ hơn: tháng 1/1128 cho nhập nội thái phó đem quân các quan chức đô cùng người châu Nghệ An đi đánh, đến tháng 2/1128 thì đánh thắng được người Chân Lạp tại bến Ba Đầu, đồng thời cầm tù chủ tướng và quân lính.
-- Trong tháng 2/1128 thư báo tin thắng trận về tới kinh sư, vua làm lễ tạ ơn Phật đã ngầm giúp Công Bình thắng giặc. Rõ ràng đây là một cuộc đụng độ lớn và với việc người Chân Lạp lưu trú tại bến Ba Đầu từ tháng 1 đến tháng 2 cho thấy đây là một cuộc xâm chiếm.
-- Vào tháng 3/1128 thái phó đem quân về kinh sư, dâng tù 169 người, đến tháng 8/1128 người Chân Lạp cùng 700 chiến thuyền tấn công hương Đỗ Gia thuộc châu Nghệ An, người Thanh Hóa là Nguyễn Hà Viêm và Dương Ổ được lệnh đem quân đánh giặc.
-- Sau 2 lần tấn công Đại Việt nhưng không thành, Chân Lạp gửi quốc thư đòi người sang sứ, nhưng Lý triều đã không trả lời.
-- Theo như Tống sử thì vào năm 1129 quốc vương của Chiêm Thành là Dương Bốc Ma Điệp có cử sứ sang cống. Vậy mà khi Dương Hoán lên ngôi lại không thấy sứ Chiêm Thành tới mừng, cho dù Thăng Long có thông báo.
-- Có thể thành Vijaya cho phép người Chân Lạp đồn trú tại phía bắc, nên tất yếu nảy sinh mâu thuẫn giữa quân đội Campuchia với các thế lực địa phương, khiến người Chiêm Thành là Ung Ma Câu phải sang Thăng Long quy phụ vào tháng 3/1130 như ghi chép của Toàn thư.
(Trích từ sách Vương Quốc Champa của tác giả Pièrre-Bernard Lafont)
-- Nhưng đến tháng 11/1130 Chiêm Thành sang cống, Toàn thư cho biết thêm tháng 12/1130 vua Lý Thần Tông đánh cầu ở Long Trì, cho sứ nước Chiêm Thành vào hầu xem. Hẳn đây không phải là cuộc cống nạp bình thường, có thể mục đích là thăm dò và với việc cho sứ vào xem đánh cầu, Thăng Long tỏ thái độ vỗ về.
-- Việt sử lược không chép rõ thời gian sứ Chiêm Thành sang cống, chỉ biết là từ tháng 6/1130 đến hết năm. Trong khi cả Toàn thư và Việt sử lược đều cho biết vào tháng 5/1130 Sùng Hiền hầu băng. Có thể sứ Chiêm Thành sang cống với mục đích dò xét thông tin Cung Hoàng băng và tình hình Thăng Long khi đó.
-- Lý triều cũng nhận ra tình hình căng thẳng tại biên giới phía nam nên vào tháng 9/1131 cho Mâu Du Đô coi châu Nghệ An. Dương Hoán lên ngôi không được suôn sẻ. Các thế lực tranh giành rất khốc liệt, rất nhiều người đã chết trong thời gian trị vị của Lý Thần Tông. Mâu Du Đô cùng phe với thái sư Trương Bá Ngọc và Cung Hoàng. Tháng 8/1128 ngài cùng Lưu Khánh Đàm được lệnh chọn các quan chức đô.
-- Sự việc xảy ra vào tháng 7/1132 như ghi chép trong Toàn thư là bọn Cụ Bàn người nước Chiêm Thành trốn về, đến trại Nhật Lệ bị người trại ấy bắt được, giải về kinh sư, cho phép chúng ta xác định vào khoảng thời gian trên Thăng Long kiểm soát được 3 châu thuộc vùng phía bắc của Bình Trị Thiên. Có thể từ khi Lý Công Bình phá được người Chân Lạp vào tháng 2/1128.
-- Không thấy sách sử nhắc đến việc Cụ Bàn sang Đại Việt từ khi nào (Toàn thư có chép dưới thời Lý Nhân Tông vào năm 1124 người Chiêm Thành là Cụ Ông cùng 3 người em họ có tới Thăng Long để chầu). Nhưng rất có thể Bàn sang Đại Việt với mục đích gián điệp vì đến tháng 8/1132 liên minh Chân Lạp và Chiêm Thành tấn công châu Nghệ An.
--  Thăng Long cho thái uý Dương Anh Nhĩ đem người ở phủ Thanh Hóa và châu Nghệ An đi đánh quân Chân Lạp và Chiêm Thành.
-- Sự kiện tháng 9/1132 được chép trong Toàn thư là lệnh thư gia Trần Lưu của châu Nghệ An dâng ba người Chiêm Thành, vốn trước đây bọn người này thường ẩn nấp ở chổ hiểm yếu, bắt người châu Nghệ An đem bán cho người nước Chân Lạp, Lưu đặt phục binh ở chổ ấy, bắt được đem dâng.
-- Việc này cho thấy 2 điều, thứ nhất là việc qua lại giữa Chiêm Thành và Đại Việt tương đối thuận lợi, thêm nữa vì sao 3 người Chiêm Thành không bắt người ở các châu Bố Minh Lâm mà lại vào sâu nội địa của Đại Việt để bắt người, thứ hai là có những bộ phận người Chiêm Thành ủng hộ và liên kết với Chân Lạp để kháng Giao Châu.
-- Vào tháng 2/1134 cả Chân Lạp và Chiêm Thành vào cống, đến tháng 5/1134 Phạm Tín ở châu Nghệ An và Lệnh tư gia là Trần Lưu dâng hươu trắng. Tháng giêng năm 1135 nước Văn Đan xâm phạm bờ cõi, thái phó Lý Công Bình dẫn 30 vạn quân vào nam, người Văn Đan rút lui. Thái phó đem quân đi tuần các động, buộc người Sơn Liêu mạn tây nam phải thuần phục, đến tháng 2/1136 Công Bình tầu nước sông tại Nghệ An đỏ như máu.
-- Rất khó để biết có xảy ra xung đột giữa thái phó Lý Công Bình với Mâu Du Đô không, chỉ biết rằng vào tháng 9/1136 gián nghị đại phu bị bãi chức. Lưu ý rằng vào tháng 7/1135 phe cánh của Đô là thái sư Trương Bá Ngọc mất. Có thể nhân việc họ Mâu bị bãi chức, người Văn Đan đã liên kết với Chân Lạp tấn công châu Nghệ An.
-- Việt sử lược chép việc tướng Chân Lạp là Tô Phá Lăng tấn công châu Nghệ An sau một sự kiện vào tháng 9/1136 trong khi Toàn thư cho biết vào tháng giêng năm 1137, châu Nghệ An tâu việc người Chân Lạp tấn công.
-- Dựa vào mộ chí của Phụng Thánh phu nhân Lê thị chúng ta biết Lý Thần Tông băng vào năm 1137, trong khi Toàn thư chép ngài mất vào năm 1138, còn Việt sử lược thì chép phù hợp với mộ chí. Nên trong trường hợp này biên theo Việt sử lược.
-- Khi Thiên Tộ lên ngôi, không thấy Chiêm Thành sang cống, có thể Champa dựa vào Chân Lạp. Tống hội yếu tập cảo có chép việc phong thêm cho quốc vương Chiêm Thành là Dương Bốc Ma Điệt thực ấp 500 hộ vào tháng 3 năm Thiệu Hưng thứ hai (1132). Rõ ràng là Chiêm Thành tận dụng sự lớn mạnh của Chân Lạp, đồng thời nhân sự suy yếu do tranh giành giữa các thế lực tại Thăng Long thời Lý Thần Tông đã cố gắng thoát ra ngoài sự kiềm chế của Đại Việt.
-- Tác giả Maspero cho rằng người kế vị Harivarman V là Jaya Indravarman III lên ngôi vào năm 1139, nhưng lại chú thích thời gian trị vì của Dương Bốc Ma Điệp bắt đầu trước năm 1114 và kết thúc sau năm 1129.
-- Dựa vào Tống hội yếu tập cảo chúng ta biết rằng năm 1132 thuộc thời gian trị vì của Harivarman V. Thêm nữa sau khi lên ngôi vào năm 1139 Jaya Indravarman III có điều kiện xây dựng đền đài tôn giáo tại Mĩ Sơn vào năm 1140 và Nha Trang vào năm 1143, vì thế đặt giả thuyết Dương Bốc Ma Điệp giữ ngôi đến năm 1139.
-- Khi lên ngôi Indravarman III có thể đã thay đổi chính sách thuần phục Chân Lạp nên vào năm 1145 người Cam Bốt đã tấn công thành Phật Thệ, kết cục quốc vương của Chiêm Thành tử trận. Jaya Rudravarman IV lên ngôi nhưng phải lánh nạn tại tiểu quốc Panduranga (Ninh Thuận, Bình Thuận) và mất vào năm 1147. Con trai của ngài lên ngôi lấy danh hiệu là Jaya Harivarman I.
-- Việt sử lược chép tháng 9/1148 Chân Lạp tấn công châu Nghệ An, trong khi Toàn thư chép vào tháng 9/1150. Trong sự kiện này Việt sử lược chép đúng hơn, bởi đoàn quân viễn chính chiếm đóng tại thành Vijaya cùng với sự hỗ trở của quân Chiêm Thành tại phía bắc đã tấn công Panduranga nhưng không đạt được kết quả, nên vua của Chân Lạp là Suryavarman II đã cho người em trai của vợ là Harideva làm vua của Chiêm Thành. Jaya Harivarman I đã xuất quân tấn công lên phía bắc vào năm 1148, giết chết Harideva và làm chủ thành Phật Thệ, đồng thời lên ngôi vào năm 1149.
-- Như thế cánh quân Chân Lạp lưu trú tại Chiêm Thành đã bị đánh tan vào năm 1149 thì rất khó để tấn công Đại Việt vào năm 1150. Harivarman I xuất quân vào năm 1148 nhưng lại lên ngôi vào năm 1149 nên có thể ngài khởi binh vào cuối năm 1148. Tuy Việt sử lược không chép kết cục của cuộc tấn công châu Nghệ An, nhưng Toàn thư cho biết người Chân Lạp gặp nắng nóng ẩm thấp, phần nhiều chết vì lam chướng bèn tự tan vỡ.
-- Giả thuyết thời tiết vào thời điểm những năm 1148 cũng giống hiện tại, thì rất có thể nắng nóng ẩm thấp là gây ra bởi gió Lào, thường hoạt động từ hạ tuần tháng 4 đến trung tuần tháng 9. Nếu đúng thì chúng ta có thể tạm xác định được vào nửa đầu tháng 9/1148 người Chân Lạp tấn công châu Nghệ An. Sau cuộc tấn công không đạt được kết quả, quân Chân Lạp tại Chiêm Thành bị tổn thất, tận dụng thời cơ đó Harivarman đã xuất quân, giành lại quyền kiểm soát thành Vijaya.
2. Việt sử lược chép: “Canh Ngọ [1150] Người Chiêm Thành là Ung Minh Điệp sang chầu xin vua phong mệnh. Vua sai Nguyễn Mông đem 5 ngàn quân sang Chiêm Thành. Ung Minh Điệp làm vua Chiêm Thành (…) Nhâm Thân [1152] Chế Bì La Bút của Chiêm Thành tới cống (…) Quí Dậu [1153] Tháng 11, Chiêm Lạp tới cống”.
Toàn thư chép: “Nhâm Thân [1152] Người nước Chiêm Thành là Ung Minh Ta Điệp đến cửa khuyết xin mệnh cho làm vua nước ấy. Xuống chiếu cho Thượng chế Lý Mông đem hơn 5 ngàn người ở phủ Thanh Hoá và châu Nghệ An sang Chiêm Thành lập Ung Minh Ta Điệp làm vua. Mông đến Chiêm Thành bị vua nước ấy là Chế Bì La Bút chống cự, bọn Ung Minh Ta Điệp và Mông đều chết (...) Giáp Tuất [1154] Mùa đông tháng 10, vua nước Chiêm Thành là Chế Bì La Bút dâng con gái, vua nhận (…) Ất Hợi [1155] Tháng 11, nước Chiêm Thành sang cống”.
Sách Ancient Indian Colonies In The Far East của Ramesh Chandra Majumdar viết: “Jaya Harivarman đánh bại quân đội của Kirata. Các vị vua Kirata tuyên bố người anh rể của anh ấy [beau-frere de Jaya Harivarman, Le Royaume De Champa, Maspero] là Vansaraja, anh trai của vợ mình [frere de sa femme, Le Royaume De Champa, Maspero] làm vua trong thành trì của Madhyamgrama ……… Jaya Harivarman lãnh đạo đội quân của ngài ấy, đánh bại Vansaraja, bắt quân Kirata và đánh bại tất cả ……… Vua của xứ Yavanas [Juan, Đại Việt, Có một địa danh Lavang trong vương quốc Chăm pa xưa, Linh mục Gioan Võ Đình Đệ] được biết vua của Cambodge đã gây ra sự khó khăn cho Jaya Harivarman ……… tuyên bố Vansaraja, một người nông dân của Champa, có tư cách làm vua và đã trợ giúp anh ta vài vị tướng cùng hàng trăm ngàn binh lính Yavanas ……… [Đoàn quân nầy kéo đến tận, Có một địa danh Lavang trong vương quốc Chăm pa xưa, Linh mục Gioan Võ Đình Đệ] miền đồng bằng Dalva [Đông Hà, Quảng Trị] và miền đồng bằng [Lavang, Có một địa danh Lavang trong vương quốc Chăm pa xưa, Linh mục Gioan Võ Đình Đệ] Sau đó, Jaya Harivarman chỉ huy quân đội của Vijaya ……… Hai bên đã tham chiến trong trận đánh khủng khiếp. Jaya đánh bại Vansaraja với tất cả ……… Số lượng lớn quân lính Yavanas bị chết trên chiến trường” [Số 72. Chữ viết trên tấm bia Mỹ Sơn về Jaya Harivarman]
Sách Le Royaume De Champa của tác giả Maspero viết: “Jaya Harivarman đã hoàn toàn chiến thắng vào cuối năm 1150 hoặc đầu năm 1151. Ghi chú 3: Sự thất bại của Anna được đề cập qua những dòng chữ trên Batau Tablah được viết trong những năm 1149 và 1151”.
-- Xem ghi chép của Việt sử lược và Toàn thư chúng ta nhận ra sự giống nhau về cấu trúc sự kiện, nhưng thời gian thì sai lệch 2 năm. Trên cơ sở sai lệch giữa 2 sách này trong sự kiện Chân Lạp tấn công châu Nghệ An, chúng ta xác định Ung Minh Điệp chạy sang Đại Việt xin quân vào mùa đông năm 1150.
-- Việt sử lược cho biết năm 1152 vua của Chiêm Thành là Chế Bì La Bút tới cống, trong khi Toàn thư cho biết tháng 10/1154 Jaya Harivarman dâng con gái cho Lý Anh Tông, như thế cần phải sửa lại thành tháng 10/1152.
-- Chế Bì La Bút kháng lệnh Thăng Long, đồng thời đánh giết quân Lý, hẳn sẽ rất lo sợ người phương bắc lại kéo quân tới, nên đành dâng con gái với mục đích cầu hòa, vì thế việc dâng ái nữ phải xảy ra khá gần với sự kiện Việt Chiêm giao chiến, bởi như vậy thì mục đích mới có thể đạt được.
-- Toàn thư cho biết tháng 10/1152 chiếu cho Lý Mông đem 5 ngàn người ở phủ Thanh Hóa và châu Nghệ An sang Chiêm Thành lập Vansaraja làm vua. Thượng chế bị Chế Bì La Bút chống cự, Ung Minh Ta Điệp và Lý Mông đều chết.
-- Như vậy là vào mùa đông năm 1150 Vansaraja chạy sang Đại Việt xin được phong tước, Thăng Long sai Lý Mông đem 5 ngàn người ở phủ Thanh Hóa và châu Nghệ An đưa Ung Minh Điệp về Chiêm Thành. Có thể thượng chế đã mất khá nhiều thời gian để vào Thanh Nghệ điều động quân đội, cũng như chuẩn bị vũ khí lương thảo cho cuộc nam chinh. Nên mãi tới năm 1152, quân đội nhà Lý mới tiến hành chiến dịch, bi ký có đề cập tới đồng bằng Dalva, qua đó cho thấy người phương bắc tiến quân theo đường bộ.
-- Chưa rõ có tài liệu nào viết về địa điểm giao chiến không, nhưng cứ theo mô tả của bi kí về đồng bằng Dalva và đồng bằng Lavang, cũng như quân đội Yavana bị chết rất nhiều trên cánh đồng. Nên rất có thể, đã xảy ra 2 cuộc giao chiến, trước tại Dalva, người Chiêm rút lui, sau tại Lavang (theo như xác định của linh mục Gioan Võ Đình Đệ). Trận Lavang diễn ra có thể là vào đầu tháng 10/1152 và như mô tả của bi kí cũng như Toàn thư thì Vansaraja và Lý Mông cùng rất nhiều binh lính Đại Việt tử trận.
-- Sau trận Lavang, lo sợ Thăng Long kéo quân tới phục hận, Jaya Harivarman dâng người con gái cho Lý Anh Tông để cầu hòa vào trong cùng tháng 10/1152. Theo Việt sử lược thì tháng 11/1153 Chiêm Lạp sang cống. Toàn thư thì chỉ chép Chiêm Thành sang cống. Hẳn là vua Chân Lạp đã biết thông tin Thăng Long thất bại trong cuộc chiến với Chiêm Thành nên cử sứ sang đặt quan hệ liên minh, nhưng sự không thành.
3. Tống sử chép: “Năm Thiệu Hưng thứ hai mươi lăm [1155] con [Dương Bốc Ma Điệp] là Trâu Thời Lan Ba lên nối ngôi, sai sứ sang cống phương vật, xin phong tước. (Triều đình) ban yến cho sứ giả ở trạm dịch Hoài Viễn, lấy tước hiệu phong cho vua cha trước đây trao cho và đáp tặng cho rất hậu (…) Năm Càn Đạo thứ ba [1167] con là Trâu Á Na nối”.
Toàn thư chép: “Tân Tị [1161] Tháng 11, vua sai Tô Hiến Thành làm đô tướng, Đỗ An Di làm phó, đem 2 vạn quân đi tuần các nơi ven biển tây nam, để giữ yên miền biên giới. Vua thân đi tiễn đến cửa biển Thần Đầu ở Đại An mới trở về (...) Giáp Thân [1164] Mùa xuân tháng 3, nước Chiêm Thành sang cống (…) Bính Tuất [1166] Mùa xuân tháng 3, sứ Chiêm Thành đi đến miền Ô Lý, dùng quân phong thủy (ma thuật của thầy tăng) mà vượt biển, cướp bóc nhân dân ven biển nước ta rồi về (...) Đinh Hợi [1167] Mùa thu tháng 7, sai Thái uý Tô Hiến Thành đi đánh Chiêm Thành. Mùa đông tháng 10, Chiêm Thành sai sứ sang dâng trân châu và sản vật địa phương để xin hoà. Xuống chiếu cho Tô Hiến Thành đem quân về. Từ đấy nước Chiêm Thành giữ lễ phiên thần, dâng cống không thiếu”.
Việt sử lược chép: “Canh Thìn [1160] Chiêm Thành tới cống (…) Ất Dậu [1165] Chiêm Thành tới cống (…) Canh Dần [1170] Chiêm Thành tới cống”.
Sách Vương quốc Champa của tác giả Lafont viết: “Jaya Harivarman có thể băng hà vào những năm 1162-1166. Theo bi ký do cháu của vua để lại, con trai của ngài đã nhận vương hiệu Jaya Harivarman II, nhưng người ta cũng không biết vị tân quốc vương có lên ngôi trị vì không ? Vào năm 1167, Jaya Indravarman IV tổ chức cuộc đảo chính để chiếm quyền (…) Ngài là vị quan đã từng phục vụ trong chính quyền của Harivarman I (…) Ngài được các bi kí ca tụng đức độ và hiểu biết nhiều lĩnh vực”.
-- Sau cuộc chiến vào tháng 10/1152, Chiêm Thành cầu hòa bằng cách dâng công chúa cho Thiên Tộ, triều đình Thăng Long cũng nhận ra không nên tham chiến nên đành chấp nhận. Năm 1153 Chiêm Thành cử sứ sang cống và mãi đến năm 1160 mới cống nạp trở lại. Mà cũng không thấy Thăng Long hỏi đến, xem ra Lý triều không tự tin vào sức mạnh quân sự của mình.
-- Năm 1161 Thăng Long phải cử Tô Hiến Thành và Đỗ An Di đem 2 vạn quân vào phía nam để yên miền biên giới, sách không chép rõ đối tượng gây ra rối loạn nên rất có thể do nhiều thành phần gây ra, trong đó không loại trừ cho người Chiêm Thành. Nguyên văn trong Toàn thư là tây nam hải - biển tây nam sao ?
-- Toàn thư cho biết năm 1164 Chiêm Thành sang cống, trong khi Việt sử lược chép là năm 1165. Toàn thư cho biết thêm là vào mùa xuân, trong khi Việt sử lược chép là vào mùa thu. Xem ra đó là 2 lần cống nạp khác nhau.
-- Toàn thư cho biết vào tháng 3/1166 Chiêm Thành đem quân tới Ô Lý rồi vượt biển sang cướp bóc dân chúng. Sự việc này cho thấy 2 việc: Thứ nhất là biên giới Đại Việt đã được xác định tại 3 châu Bố Chính, Minh Linh, Lâm Bình. Thứ hai là người Chiêm đã thay đổi chính sách đối với Thăng Long.
-- Sự thay đổi chính sách cho thấy rất có thể một chính thể mới đã được thiết lập tại Phật Thệ và đó rất có thể là do Jaya Harivarman II lãnh đạo. Năm 1165 Chiêm Thành còn sang cống, vậy mà qua năm 1166 đã quấy nhiễu biên giới. Có thể năm 1165 Harivarman cha vẫn tại vị nhưng ngài mất trong năm đó nên người con trai của ngài lên ngôi và Harivarman con đã thay đổi chính sách.
-- Sự thay đổi chính sách của Harivarman con, đã buộc các quan lại trong triều đình của Chế Bì La Bút đắn đo và kết thúc là cuộc đảo chính do Jaya Indravarman IV lãnh đạo. Chúng ta không thể chắc chắn về các chính sách, song cũng có thể tạm nhận ra Harivarman cha và Indravarman IV theo đuổi chính sách hòa với phương bắc và mở rộng về phương nam, trong khi Harivarman thì ngược lại.
-- Thăng Long được tin Chiêm Thành cướp bóc, vua sai Tô Hiến Thành đem quân nam tiến vào tháng 7/1167, tuy nhiên chính quyền do Indravarman IV đã tránh được cuộc chiến nhờ việc cử sứ sang Thăng Long cầu hòa vào tháng 10/1167. Như Toàn thư chép thì từ đó trở đi Chiêm Thành biết giữ lễ phiên thần.
(Người viết xin được cảm ơn tác giả Nguyễn Quang Toản đã hỗ trợ tài liệu và những chỉ dẫn cần thiết)

VIỆT CHIÊM TRƯỜNG TRẬN TÂN BIÊN (PHẦN 4)


1. Việt sử lược chép: “Năm Quý Sửu [1073] Nước Chiêm Thành tới cống (…) Năm Ất Mão [1075] Chiêm Thành tới cống (…) Năm Đinh Tị [1077] Chiêm Thành tới cống (…) Năm Tân Dậu [1081] Chiêm Thành tới cống”.
Toàn thư chép: “Tân Hợi [1071] Chiêm Thành sang cống (…) Quý Sửu [1073] Thái sư Lý Đạo Thành lấy chức Tả gián nghị đại phu ra coi châu Nghệ An. Đạo Thành lập viện Địa Tạng ở trong miếu Vương Thánh châu ấy, ở giữa viện đặt tượng Phật và vị hiệu của Thánh Tông, sớm hôm thờ phụng. Sử thần Ngô Sĩ Liên nói: Đạo Thành là đại thần cùng họ, đương khi để tang Thánh Tông vì có việc ra trấn ở ngoài, lòng cảm nhớ tiên đế là chân tình, nhân mượn cớ thờ Phật để thờ vua, đó chỉ là việc nhất thời mà thôi (…) Giáp Dần [1074] Chiêm Thành lại quấy rối biên giới. Cho Lý Đạo Thành làm Thái phó bình chương quân quốc trọng sự (...) Ất Mão [1075] Sai Lý Thường Kiệt tổng lĩnh các quân đi đánh Chiêm Thành, không thắng được. Thường Kiệt bèn họa địa đồ hình thế núi sông của ba châu Bố Chính, Địa Lý, Ma Linh rồi về. Đổi châu Địa Lý làm châu Lâm Bình, châu Ma Linh là châu Minh Linh, chiêu mộ dân chúng đến đấy ở. Cho Thường Kiệt làm Thái úy”.
Ghi chú 12 trong sách Lý Thường Kiệt. Lịch sử ngoại giao và tông giáo triều Lý của học giả Hoàng Xuân Hãn viết: “TT [Toàn thư] chép việc đánh Chiêm-thành vào tháng 8 năm trước (A. Ma 1075). VSL không chép việc ấy. SK [Đại-Việt sử-ký (Nguyễn Tây Sơn)] cho ta biết rằng sách Việt-sử bi-lãm của Nguyễn Nghiễm chép chuyện ấy vào năm B. Th 1076. Chép như thế mới đúng lý. Nhưng ta không biết Nguyễn Nghiễm dựa vào đâu mà chép khác TT. Trong khoảng sử về Lý, TT còn chép lầm một vài chỗ khác. Còn như VSL, thì không nói đến việc nầy. Ấy tỏ rằng việc tuần-du nầy không quan hệ lắm. Vậy chắc không phải để đánh Chiêm”.
Tống sử chép: “Năm [Hi Ninh] thứ 5 [1072] sang cống (…) Năm thứ 7 [1074] Lý Càn Đức ở Giao Châu tâu, vua Chiêm Thành đem ba ngàn quân cùng vợ con đến hàng, tháng giêng thì tới bản đạo. Năm thứ 9 [1076] Chiêm Thành lại sai sứ sang tâu: Từ nước ấy đi đường biển đến Chân Lạp là một tháng hành trình, theo hướng tây bắc đến Giao Châu là 40 ngày đều là đường núi. Cai quản 105 nơi dân cự tụ lạc, đại lược như châu huyện. Quốc vương 36 tuổi, mặc áo choàng gấm Đại Thực hoặc gấm Xuyên Pháp, đeo 7 chuỗi vàng ngọc, đội mũi kim quan trang trí thất bảo, đi giày da đỏ. Mỗi khi ra ngoài có 500 người tùy tòng, mười người con gái bưng mân vàng để hộp đựng cau, cùng đội nhạc dẫn đường. Quân triều đình sang đánh Giao Chỉ, vì cớ vốn có thù, bèn chiếu cho Chiêm Thành mệnh thừa cơ hiệp lực cùng diệp trừ. Hành doanh chiến trạo đô giám Dương Tòng sai tiểu hiệu Phàn Thực sang dụ bảo trước. Thực trở về nói nước ấy đã tuyển chọn 7 ngàn quân chặn giữ những đường yếu đạo của giặc, quốc vương nước ấy có lấy lá cây viết điệp trả lời và chiếu cho sứ dâng lên. Nhưng rồi việc cũng khổng thể thành công” [Bản dịch của dịch giả Châu Hải Đường]
Tống hội yếu tập cảo: “Hi Ninh năm thứ 4 [1071] sang cống (…) năm thứ 5 [1072] dâng san hô (…) năm thứ 9 [1076] chiếu: 2 nước Chiêm Thành, Chân Lạp bị Giao Chỉ quấy nhiễu, nay vương sư phạt tội, cùng hiệp lực để diệt trừ (…) Riêng vương cũ của Chiêm Thành khó mà trở về để lại làm vương của bản quốc”.
Sách Le Royaume De Champa của Maspero viết: “Rudravarman bị bắt, đất nước rơi vào nội chiến, trên tất cả các lãnh địa, hơn mười lãnh chúa tuyên bố độc lập và tự xưng vua, sau đó tham gia xâm chiếm và áp đặt quyền lực lên các đối thủ”.
Sách Vương quốc Champa của Lafont viết: “Nhờ một bi ký Mỹ Sơn bằng Phạn ngữ và Chăm ngữ mà người ta được biết có hai vị hoàng tử không biết thuộc về dòng tộc nào, tên là Thang và Pang tìm cách chấm dứt tình trạng hỗn loạn (…) Năm 1074 hoàng tử Thang lên nắm chính quyền (…) ông ta tự phong vương cho mình với danh hiệu là Harivarman IV (…) Harivarman IV quyết định về hưu trí bằng cách đưa con trai của mình tên Vak vừa mới 9 tuổi, lên ngối ngôi vào năm 1080 dưới danh hiệu là Jaya Indravarman II. Năm sau Harivarman IV băng hà”.
-- Sau khi Chế Củ bị Lý Thánh Tông bắt giải về Thăng Long, ngài đã xin dâng 3 châu Địa Lý, Mi Linh, Bố Chính cho Đại Việt để đổi lấy tính mạng. Trở về Chiêm Thành với sự đồng thuận của Thăng Long nên thời gian đầu tình hình chưa đến mức tồi tệ.
-- Nhưng bước ngoặt xảy đến vào năm 1072 khi Lý Thánh Tông băng hà. Không còn sự chống lưng của Thăng Long, các thế lực bất phục thành Phật Thệ nổi dậy, cuộc nội chiến trở nên nghiêm trọng.
-- Nhận thấy tình hình Phật Thệ khó mà kiểm soát, trong lần đi sứ năm 1073, Chiêm Thành trước là mừng Càn Đức lên ngôi, sau là báo tin cho Thăng Long biết. Để trợ uy cho Chế Củ và cũng là phòng biến loạn từ phía nam, Lý triều cử thái sư Lý Đạo Thành vào coi châu Nghệ An. Để nhắc nhở người Chiêm về cuộc chiến năm 1069, Tả gián nghị đại phu đã cho dựng vị hiệu của Thánh Tông.  
-- Thế nhưng chính thể do Chế Củ thành lập đã không kiểm soát được tình trạng nội chiến tại Chiêm Thành và ngài buộc phải đưa gia đình và 3 ngàn quân sang nương trú Đại Việt vào tháng giêng năm 1074.
-- Có 3 bằng chứng cho phép phỏng đoán như vậy, gồm: thứ nhất là lời tâu của Lý Càn Đức và thứ hai là ghi chép của Tống sử mục năm thứ 9, giống như là một bản thống kê của một vị quốc vương mới trình lên thiên triều và thứ ba là ghi chép của Tống hội yếu tập cảo về vị quốc vương cũ khó có thể trở lại làm quốc vương của Chiêm Thành.
-- Toàn thư cũng cho biết mùa xuân năm 1074 Chiêm Thành lại quấy rối [nguyên văn là Chiêm Thành phục nhiễu biên] Theo như mô tả của Toàn thư thì trước đây Chiêm Thành đã từng quấy nhiễu vùng biên giới, do Toàn thư không chép rõ tháng nên có thể vào tháng giêng, khi Chế Củ chạy sang Thăng Long đã bị các thế lực chống đối truy kích, khiến vùng biên giới trở nên căng thẳng.
-- Về phía Lý triều, liền cho Lý Đạo Thành làm Thái phó bình chương quân quốc trọng sự. Có thể Thăng Long cũng đã sẵn sàng cho một cuộc chiến tranh quy mô. Chúng ta không thể chắc Thăng Long có điều quân vào nam không, nhưng có thể chắc chắn rằng sự kiện Lý Thường Kiệt đem binh đánh Chiêm Thành vào tháng 8 năm 1076 (mà Toàn thư chép nhầm là năm 1075) chỉ là một cuộc thị uy sức mạnh quân sự mà thôi.
-- Vì từ tháng 5/1076 Đại Tống đã có những động thái quân sự với mục đích phản công Đại Việt đã tấn công 3 châu Ung Khâm Liêm trước đó. Nếu để xảy ra cuộc chiến với 7 ngàn quân của Chiêm Thành thì hao tổn quân sự không phải nhỏ, lại tốn thêm nhiều thời gian, tất sự chuẩn bị cho cuộc chống Tống sẽ kém đi.
-- Sự kiện Lý Thường Kiệt họa bản đồ 3 châu và đổi 2 châu Địa Lý thành Lâm Bình, Ma Linh thành Minh Linh, cũng như chiêu mộ dân chúng đến ở, cho thấy 3 châu phía bắc vùng Bình Trị Thiên thuộc Đại Việt cả trên danh nghĩa và thực tế.
-- Việt sử lược cho biết các năm 1082, 1083, 1084, 1085, 1086, 1087, 1089, 1091 sứ Chiêm Thành sang cống, Tống sử cho biết năm 1092 Chiêm Thành sai sứ sang thiên triều dâng biểu nói: nếu thiên triều đánh Giao Châu thì xin xuất binh đánh úp.
-- Chiêm Thành tỏ rõ thái độ kháng Giao Châu nên năm 1092 và 1093 bỏ cống nên mùa xuân năm 1094 Thăng Long sai hàn lâm học sĩ Mạc Hiển Tích sang sứ Chiêm Thành đòi lễ tuế cống, thấy rằng không thể cương với Giao Châu nên vào mùa thu năm 1094 sứ Chiêm Thành sang cống.
-- Theo Việt sử lược các năm 1095, 1097, 1098, 1099, 1102 Chiêm Thành sai sứ sang cống.
2. Toàn thư chép: “Quí Mùi [1103] Mùa đông tháng 10, người Diễn Châu là Lý Giác mưu làm phản. Giác trước học được thuật lạ, có thể biến cây cỏ làm người, bèn chiêu tập những kẻ vô lại chiếm cứ châu ấy, đắp thành làm loạn. Việc tâu lên, vua sai bọn Lý Thường Kiệt đi đánh. Giác thua trốn sang Chiêm Thành, dư đảng đều bị dẹp yên. Chiêm Thành cướp biên giới (...) Giáp Thân [1104] Mùa xuân tháng 2, sai Lý Thường Kiệt đi đánh Chiêm Thành. Trước, Lý Giác chạy sang Chiêm Thành nói tình hình hư thực của nước ta. Vua Chiêm Thành là Chế Ma Na nhân thế đem quân vào cướp, lấy lại 3 châu Địa Lý [Địa Lí đẳng tam châu] mà Chế Củ đã dâng. Đến đây, sai Lý Thường Kiệt đi đánh, phá được, Chế Ma Na lại dâng nộp đất ấy”.
Việt điện u linh tập: “Vua bèn sai ông thống lĩnh đại binh, phá được giặc ở các thành Ung Khâm Liêm, khắc phục được ba châu bốn trại, bắt được tù binh, thu được của cải không biết bao nhiêu mà kể. Năm Long Phù thứ nhất (1101) vua trao cho ông chức Nội thị phán sảnh đô áp vệ, Hành điện nội ngoại đô tri sự. Mùa đông, ông đẹp yên giặc Lý Giác ở Diễn Châu. Nhà Tống sang đánh báo thù vây hãm các châu Lục, Lược. Ông ra sức đắp thành ở sông Như Nguyệt, lấy lại được Vũ Bình Nguyên. Quân ta thắng lợi trở về, nhà vua lại khen thương lớn”.
-- Việt sử lược cũng như bia chùa Linh Xứng núi Ngưỡng Sơn không thấy đề cập tới loạn Lý Giác, trong khi Việt điện u linh lại chép sự kiện Lý thái úy dẹp loạn Lý Giác trước trận Như Nguyệt trong cuộc chống Tống, có khi nào loạn Lý Giác ở Diễn Châu diễn ra vào tháng 8 năm 1076 không ? Xin không bàn thêm.
-- Từ năm 1103 quan hệ cống nạp Việt Chiêm có lệ, đến những năm 1124 người nước Chiêm Thành là bọn Ba Tư Bồ Đà La 30 người sang quy phụ, có thể là hậu quả của cuộc binh biến nào đó chăng ?
3. Toàn thư chép: “Mậu Thân [1128] Mùa xuân tháng giêng, ngày Giáp Dần, hơn 2 vạn người Chân Lạp vào cướp bến Ba Đầu ở châu Nghệ An. Xuống chiếu cho Nhập nội thái phó Lý Công Bình đem các quan chức đô cùng người châu Nghệ An đi đánh (...) Tháng 2, ngày Quý Hợi, Lý Công Bình đánh bại người Chân Lạp ở bến Ba Đầu, bắt được chủ tướng và quân lính (...) Thư báo thắng trận của Lý Công Bình đến kinh sư (...) Tháng 3 Lý Công Bình đem quân về kinh sư, dâng tù 169 người (…) Tháng 8, người Chân Lạp vào cướp hương Đỗ Gia ở châu Nghệ An, có đến hơn 700 chiếc thuyền. Xuống chiếu sai bọn Nguyễn Hà Viêm ở Thanh Hoá và Dương Ổ ở châu ấy đem quân đánh, phá được (...) Châu Nghệ An đệ tâu một phong quốc thư của nước Chân Lạp, xin sai người sang sứ nước ấy. Vua không trả lời”.
Việt sử lược chép: “Năm Mậu Thân [1128] Tháng 2 Chân Lạp đến cướp ở Nghệ An, vua sai thái phó Nguyễn Bình Công đi đánh dẹp, bắt được tướng của nó rối về”.
Sách Vương quốc Champa của Lafont viết: “Các quần thần trong triều đình nhận thấy rằng Jaya Indravarman II vì tuổi chưa trưởng thành, không đủ khả năng để điều hành quốc gia, thành ra phải đưa người chú của ông ta, tức hoàng tử Pang lên thay thế để lãnh đạo quốc gia vào năm 1081, lấy vương hiệu là Pamarabodhisattva, một tên gọi mang ảnh hướng phật giáo (…) Sau đó ông ta nhường lại ngôi cho người cháu là Jaya Indravarman II vào năm 1086 (…) Indravarman II mất vào năm 1113 và được phong chức thánh hiệu là Paramabuddhaloka. Cháu của ông ta là người nối ngôi vua với danh hiệu là Harivarman”.
Tống sử chép: “Niên hiệu Chính Hòa [1111-1118] cho quốc vương là Dương Bốc Ma Điệp làm kim tử quang lộc đại phu (…) Năm Tuyên Hòa nguyên niên (1119) thăng làm kiểm hiệu tư không, kiêm ngự sử đại phu, hoài viễn quân tiết độ sứ (…) Năm Kiến Viêm thứ 3 (1129) Dương Bốc Ma Điệp sai sứ sang cống”.
Toàn thư chép: “Canh Tuất, [Thiên Thuận] năm thứ 3 [1130] Tháng 3, người nước Chiêm Thành là Ung Ma, Ung Câu sang quy phụ (...) Tháng 11, Chiêm Thành sang cống (…) Nhâm Tý [1132] Mùa thu tháng 7, người nước Chiêm Thành là bọn Cụ Bàn trốn về nước, đến trại Nhật Lệ bị người trại ấy bắt được, giải về kinh sư (...) Tháng 8, Chân Lạp và Chiêm Thành đến cướp châu Nghệ An (...) Xuống chiếu cho Thái uý Dương Anh Nhĩ đem người ở phủ Thanh Hóa và châu Nghệ An đi đánh quân Chân Lạp và Chiêm Thành, phá tan (...) Lệnh thư gia châu Nghệ An là Trần Lưu dâng ba người Chiêm Thành. Trước đây bọn người này thường ẩn nấp ở chổ hiểm yếu, bắt người châu Nghệ An đem bán cho người nước Chân Lạp, Lưu đặt phục binh ở chổ ấy, bắt được đem dâng”.
Việt sử lược chép: “Năm Canh Thân [1130] Chiêm Thành tới cống (…) Năm Giáp Dần [1134] Chân Lạp, Chiêm Thành sang cống”.
-- 
Toàn thư chép: “Ất Mão [1135] Tháng 2, hai nước Chân Lạp và Chiêm Thành sang cống (…) Đinh Tị [1137] Mùa xuân tháng giêng, châu Nghệ An chạy trạm tâu việc tướng nước Chân Lạp là Phá Tô Lăng cướp châu ấy. Xuống chiếu cho thái uý Lý Công Bình đem quân đi đánh. Tháng 2, châu Nghệ An động đất, nước sông đỏ như máu. Công Bình sai Nội nhân hỏa đầu Đặng Khánh Hương về Kinh sư đem việc ấy tâu lên. Công Bình đánh bại người Chân Lạp”.
Việt sử lược: “Năm Bính Thìn [1136] Mùa xuân tháng 2 có động đất ở châu Nghệ An, sông đỏ như máu (…) tháng 9 (…) Tướng Chân Lạp là Tô Phá Lăng đến cướp châu Nghệ An, vua sai thái phó Nguyễn Công Bình đi đánh bại được”.
Văn bia về thái úy Lý công nước Đại Việt khắc: “Tháng giêng năm Thiên Chương Bảo Tự thứ 3 [1135] đang lúc thiên hạ thanh bình, bốn bề yên tĩnh thì nước Văn Đan xâm phạm bờ cõi phía nam. Vua sai thái úy và thái phó Lý Công Bình thống lĩnh 30 vạn quân, theo đường biển tới xứ Âm Dã, quận Nhật Nam (…) khí thế như gió rung núi lở, quân giặc sợ hãi kéo nhau chạy trốn, quân của thái úy đuổi theo chém tướng bắt tù binh, đuổi đến Vụ Ôn thì trở về. Cũng trong năm ấy, thái úy vâng mệnh vua đi đánh bọn Sơn Liêu vì chúng cậy núi non hiểm trở không chịu vào chầu” [Sách Văn bia Hán Nôm Việt Nam của tác giả Đinh Khắc Thuân]
Ghi chú 10 viết: “Văn Đan tức Vạn Tượng, tên nước ở phía tây biên giới nước ta”.
Ghi chú 14 viết: “Vụ Ôn tên đất thuộc miền nam trung bộ ngày nay”
Ghi chú 15 viết: “Sơn Liêu chỉ các dân tộc ít người ở rẻo cao mạn tây nam nước ta”
-- 
Sách Vương quốc Champa của tác giả Lafont viết: “Người thừa kế vua Harivarman V là một vị thái tử (Yuvaraja) lên ngôi vào năm 1139 với danh hiệu là Jaya Indravarman III [Sau năm 1143] Indravarman III phải đối phó với cuộc tấn công của Campuchia [và] thủ đô Vijaya của Champa lại lọt vào tay của quân đội Khmer và vua Jaya Indravarman III tử trận trong cuộc chiến [1145 – Maspero] Trong khi thủ đô Vijaya bị chiếm đóng (…) Jaya Rudravarman IV được tấn phong làm vua Champa, nhưng sau đó ông ta và đoàn tùy tùng phải chạy sang Panduranga lánh nạn [và] băng hà vào năm 1147 mang thánh hiệu là Paramabrahmaloka (…) Sau đó các quan chức Champa đang lánh nạn tại tiểu vương quốc Panduranga tôn người con trai của ông lên nối ngôi lấy danh hiệu là Jaya Harivarman I (…) Vua Campuchia ra lệnh cho đoàn quân viễn chinh ở Vijaya với sự hỗ trợ của quân đội Champa ở miền bắc kéo quân sang miền nam tấn công vua Jaya Harivarman I, nhưng không đạt được kết quả (…) Vua Campuchia là Suryavarman II tự phong cho hoàng tử Harideva, tức là người em vợ của mình, lên làm vua Champa ở miền bắc, đóng đô tại Vijaya (…) Vua Harivarman I nghe tin, liền xuất quân tấn công miền bắc, giết chết hoàng tử Campuchia là Harideva và làm chủ tình hình Vijaya, sau đó Harivarman I tự xưng là vua Champa vào năm 1149”.
Sách Le Royaume De Champa của tác giả Maspero viết: “Jaya Harivarman I khởi bình và giao chiến với [?] Cankara và những người Campuchia, cùng quân đội của họ, kết quả họ bại năm 1148”.
Việt sử lược chép: “Năm Mậu Thìn [1148] Mùa thu tháng 9 Chân Lạp tới cướp châu Nghệ An”.