Toàn
thư chép: “Đinh Sửu [1277] Bấy giờ Uy Văn Vương Toại lấy con gái của Thượng hoàng là công chúa Thụy
Bảo. Toại ham học, hay thơ, có câu: “Pha lạp ngũ hồ vinh bội ấn
- Tang ma tế dã thắng phong hầu”. [Toại] tự hiệu là Sầm Lâu, có Sầm Lâu tập lưu hành ở đời. Vua từng
hỏi ông nghĩa chữ Quan Gia. Ông đáp: "Năm đời đế lấy thiên hạ làm của công
(quan) ba đời vương lấy thiên hạ làm của nhà (gia) nên gọi là quan gia". Vua
khen ông kiến thức rộng. Không may chết sớm (24 tuổi) người trong nước ai cũng
thương tiếc”.
Nam
Ông mộng lục của Hồ Nguyên Trừng chép: “Thơ dùng câu hay của tiền nhân. Tôn
thất nhà Trần có người hiệu Sầm Lâu, trẻ tuổi đã có tài thơ, hai mươi bảy tuổi
thì mất. Có Sầm Lâu tập lưu hành ở đời. Mộ trên bờ sông Ô Diên. Nguyễn Trung
Ngạn hiệu Giới Hiên cũng có tiếng thơ, nhưng không kịp quen biết. Đi qua Ô
Diên, có thơ viếng rằng: Bình sinh hận không được biết Sầm Lâu - Mỗi lần đọc thơ
còn sót lại, một lần cúi đầu - Tơi nón Ngũ Hồ vinh hơn mang ấn - Dâu gai mấy
mẫu thắng phong hầu”.
An
Nam chí lược chép: “Trần Toại Trần Thái vương sanh quốc phong uy văn vương
thông minh hảo học tự hiệu Sầm Lâu hữu văn tập [Cháu kêu Trần Thái vương bằng
cậu, phong tước Oai Văn vương, thông minh ham học, tự hiệu Sầm Lâu, có văn tập
truyền đời] Thường làm thơ có câu: “Cổ lại hà vật bất thành thổ - Tử hậu duy
thi thả thắng kim”. Vãn điệt Văn Hiến hầu vân [Lại có làm một câu thơ vãn người
cháu Văn Hiến hầu như sau] “Sơn khởi nhẫn mai thành ngọc khí – Nguyệt không tự
chiếu thiếu niên hồn”. Toại chết năm 24 tuổi, người trong nước lấy làm thương
tiếc” [Bản dịch của Viện Đại Học Huế - 1961]
- Trên là 3 tài liệu quan
trọng ghi chép về nhân vật khá nổi tiếng là Sầm Lâu Trần Toại. Từ 3 tài liệu
này chúng ta sẽ rút ra những thông tin quan trọng để từ đó truy tìm về thân phụ
của Sầm Lâu. Theo bản dịch của Viện đại học Huế năm 1961 thì Trần Toại gọi Thái
Tông Trần Cảnh là cậu. Toàn thư cho biết Sầm Lâu lấy công chúa của Trần Thái
Tông là Thụy Bảo, đồng thời Trần Toại là người giải nghĩa 2 chữ Quan Gia cho
Trần Thánh Tông. Theo bản dịch của Viện đại học Huế thì Sầm Lâu có làm 2 câu thơ khóc
người cháu là Văn Hiến hầu. Cuối cùng Hồ Nguyên Trừng cho chúng ta biết Trần
Toại hưởng dương 27 tuổi, mộ phần tại bờ sông Ô Diên.
1. Về quan hệ của Sầm
Lâu với Thái Tông Trần Cảnh, thì như An Nam chí lược chép là [ 甥 ] nên có thể hiểu theo 2 cách: cháu gọi bằng cậu hoặc chàng rể. Lại thêm,
Toàn thư chép rõ: Trần Toại lấy con gái thượng hoàng là công chúa Thụy Bảo, do
đó tôi cho rằng: Lê Tắc muốn thể hiện mối quan hệ cha vợ - con rể giữa Trần Cảnh
với Sầm Lâu. Nam Ông mộng lục cũng xác nhận Toại là tôn thất nhà Trần nhưng
không cho biết chính xác là mối quan hệ gì, do đó không đủ mạnh để xác thực mối
quan hệ cậu cháu giữa Trần Cảnh với Sầm Lâu.
An Nam chí nguyên của Cao Hùng Trưng cũng có
chép: “Trần Tụy là cháu đại vương nhà Trần, được phong tước ngụy là Văn Vương
(…) Cháu là Văn Linh hầu có thơ viếng [Tụy] rằng: “Sơn khởi nhẫn mai thành khí
ngọc - Nhật ưng tự chiếu thiếu niên hồn”. Năm 24 tuổi, Tụy mất” [Bản dịch của
Hoa Bằng Hoàng Thúc Trâm]
- Có 3 sai khác giữa ghi chép của An Nam chí lược và An Nam chí nguyên.
Thứ nhất, nếu Lê Tắc cho biết Trần Toại có tước hiệu là Uy Văn vương thì Cao
Hùng Trưng cho biết Sầm Lâu có tước hiệu là Văn vương. Thứ hai, nếu An Nam chí
nguyên cho biết người cháu của Trần Tụy là Văn Linh hầu thì An Nam chí lược cho
biết người cháu của Sầm Lâu là Văn Hiến hầu. Thứ ba, nếu Lê Tắc cho biết đôi
câu thơ “Sơn khởi nhẫn mai thành khí ngọc - Nguyệt không tự chiếu thiếu niên hồn”
là Trần Toại làm để khóc người cháu Văn Hiến hầu, thì Cao Hùng Trưng cho biết
đôi câu thơ ấy là của người cháu Văn Linh hầu làm để khóc Sầm Lâu.
Toàn thư chép: “Ất Mão [1315] Sử thần Ngô Sĩ Liên nói: Vua
vốn nhân hậu với họ hàng, nhất là đối với bậc bề trên mà hiển quý lại càng tôn kính.
Kẻ thần hạ hễ ai cùng tên (với họ hàng nhà vua) đều phải đổi cả, như Độ đổi
thành Sư Mạnh vì là cùng tên với thượng phụ, Tung đổi thành Thúc Cao vì là cùng
tên với Hưng Ninh Vương (con trưởng của An Ninh vương). Lại các tên
của chú bác, cô cậu, khi nói đến vẫn kiêng cả. [Vua] có quyển sổ nhỏ biên những
chữ húy không được nói đến, trao cho các hoàng tử và cung phi”.
- Qua Việt sử lược
mục năm 1139 và Toàn thư mục năm 1141 chúng ta biết rằng: vào thời Trần, vì
kiêng húy nên đã đổi chép chữ Hiến ra chữ Linh, do đó mà tước hiệu đúng của
người cháu là Văn Hiến hầu. Sự sai khác cũng cho thấy: Cao Hùng Trưng đã tiếp
cần nguồn tài liệu không phải từ An Nam chí lược.
Toàn thư chép: “Canh Tuất [1250] Xuống chiếu cho thiên hạ gọi vua là
quan gia (…) Ất Mão [1255] Hoàng tử thứ 6 Nhật Duật sinh (…) Mậu Thìn [1328] Cha hoàng hậu là
Quốc Chẩn giữ ý định đợi hoàng hậu có con rồi sẽ lập. Cương Đông Văn Hiến hầu
(không rõ tên) là con (có sách chép là em) của Tá Thánh thái sư Nhật Duật, muốn
đánh đổ hoàng hậu để lập hoàng tử Vượng, mới đem 100 lạng vàng đút lót cho gia
thần của Quốc Chẩn là Trần Phẫu, bảo nó vu cáo Quốc Chẩn âm mưu phản loạn (…)
Canh Ngọ [1330] Tá Thánh thái sư Chiêu Văn Đại Dương Nhật Duật mất, thọ 77 tuổi”.
- Dịch giả Hoa Bằng
Huỳnh Thúc Trâm cho rằng: Văn Hiến hầu hiệu Cương Đông, là con trai của Trần
Nhật Duật [1255-1330] Chiêu Văn vương là con trai thứ 6 của Thái Tông Trần
Cảnh, tức là bằng vai với Trần Toại, do đó nếu Cương Đông Văn Hiếu hầu là em
trai của Trần Nhật Duật thì không thể là cháu của Sầm Lâu được ?
- Chúng ta biết rằng
Trần Thánh Tông có hỏi Sầm Lâu về ý nghĩa 2 chữ quan gia, nghĩa là vào thời điểm ấy thì Trần Toại cũng đã trưởng thành, trong khi Toàn thư cho
biết năm 1250 Trần Cảnh có ban chiếu cho thiên hạ gọi vua là quan gia. Các tài liệu đều chép rằng:
Sầm Lâu hưởng dương khoảng 25 tuổi, vậy thì lúc Trần Toại mất thì Cương Đông
rất có thể chưa ra đời. Nếu vậy thì Cao Hùng Trưng đã chính xác khi cho rằng:
đôi câu thơ là do Văn Hiến hầu thương tiếc mà viết cho Sầm Lâu, cũng tương tự
như trường hợp của Giới Hiên Nguyễn Trung Ngạn. Về tước hiệu, do không có thêm
tài liệu để kiểm chứng nên trong trường hợp của Trần Toại, chúng ta sử dụng
sách có niên đại gần với sự kiện nhất, đó là An Nam chí lược.
2. Nam Ông mộng lục cung cấp thông tin tương đối quan trọng để từ đó lần
về thân phụ của Trần Toại, ấy là “mộ phần nằm bên bờ sông Ô Diên”. Hiện tôi
chưa biết tài liệu nào ghi chép về sông Ô Diên, nhưng thành Ô Diên và huyện Ô
Diên thì có nhiều tài liệu ghi chép.
Đại Nam nhất thông chí chép: “Hà Nội. Sông Nhuệ nguồn từ phía đông nam
đầm Bát Long xã Hạ Mỗ, huyện Từ Liêm chảy vào địa phận huyện Thai Oai (…) Bài
Quần Thần ở địa phận huyện Từ Liêm (…) nay là địa phận 2 xã Thượng Cát và Hạ
Cát (…) Thành cổ Ô Diên ở địa phận huyện Từ Liêm (…) nhà Đường năm Vũ Đức thứ
4, đặt làm huyện Ô Diên, nay là xã Hạ Mỗ”.
Bài Những dòng chảy quá vãng của tác giả Nguyễn Vinh
Phúc viết: “Sông Từ Liêm. Cho tới trước khi có hệ thống đê chạy dọc sông Hồng,
tức trước thế kỷ XI, thì sông Hồng tới chỗ nay là xã Trung Châu, Đan Phượng đã
tách ra một nhánh chạy về bên hữu ngạn theo hướng Tây Bắc - Đông Nam qua các
làng Hạ Mỗ, Vĩnh Kỳ, Thượng Hội, Hạ Hội (nay thuộc Đan Phượng) và Tây Tựu, Phú
Diễn (nay thuộc Từ Liêm) thì chuyển hướng về Nam ... Đó chính là sông Từ Liêm,
nay gọi Nhuệ. Vì những vùng đất sông này đi qua chính là huyện Từ Liêm và huyện
Ô Diên xa xưa. Năm 557, Lý Phật Tử xây thành Ô Diên ở cửa sông Từ Liêm. Thành
này không còn, nhưng dân Hạ Mỗ vẫn cho là xứ đồng, ngoài đê là khu thành cổ Ô
Diên. Sau này, khi có đê, cửa sông Từ Liêm bị lấp thành đồng, dĩ nhiên nằm
ngoài đê. Nhưng khúc sông trong đê thì vẫn còn. Không rõ tên sông Từ
Liêm được thay bằng Nhuệ Giang từ bao giờ”.
- Thứ tự trên bản đồ từ trái qua
phải là sông Đáy, Hạ Mỗ, Thượng Cát, Liên Mạc và sông Nhuệ. Vị trí mà đoạn sông
Hồng bị trũng xuống thuộc xã Trung Châu, theo tác giả Nguyễn Vinh Phúc thì
trước khi có đê kè còn tồn tại một cửa sông. Cửa sông này bắt nguồn từ đông nam
đầm Bát Long, thuộc xã Hạ Mỗ. Khi đê kè xuất hiện, đầm dần dần trở thành đất
thổ, cửa sông lấp, hiện tại cửa sông Nhuệ nằm ở vị trí Thụy Phương trên bản đồ.
- Không rõ chính xác thì sông Ô
Diên mà Hồ Nguyên Trừng nhắc đến là sông nào và nằm ở vị trí nào, nhưng tôi ngờ
rằng: nó chỉ loanh quanh gần khu vực thành Ô Diên của huyện Ô Diên mà thôi. Như
thế rất có thể mộ phần của Sầm Lâu Trần Toại ở Hạ Mỗ hoặc các làng xã xung
quanh.
- Thời Trần có lệ phong ấp, các
vương hầu được ban những khoảnh đất làm của riêng, thêm nữa các vương hầu
thường trú tại ấp phong, khi có việc thì thượng kinh. Nên tôi cho rằng: khi
chết các vương hầu cũng được chôn cất tại ấp phong của mình, nói cách khác khu
vực thành Ô Diên rất có thể là của riêng Sầm Lâu hoặc thân phụ của ngài.
- Trong bài viết trước đây của
tôi về con trai thứ 8 của Lý Phật Tử là Lý Bát Lang được thờ ở miếu Hàm Rồng
thuộc xã Hạ Mỗ, thực chất là ánh xạ của nhân vật lịch sử Hiển Tín vương Lý Bát
thuộc dòng dõi Bảo Quốc vương Lý Long Xưởng. Còn nhân vật Cảo Nương, con gái
của Triệu Việt vương theo tôi là có liên quan tới địa danh Cảo [Nhật Tảo, Từ
Liêm] mà Việt sử lược có chép tại mục năm 1216 là “tướng Cảo là Đỗ Nhuế đánh
vua”.
3. Việt điện u linh chép: “Triệu Việt Vương, Lý Nam Đế. Nam Đế đã chiếm
được nước của Triệu Việt Vương rồi, thiên đô qua xứ Lộc Loa và Vũ Ninh, phong
cho người anh là Xương Ngập làm Thái Bình hầu giữ Long Biên, phong đại tướng
quân là Lý Tấn Đỉnh làm An Ninh hầu giữ thành Ô Diên” [Bản dịch của Lê Hữu Mục]
Toàn thư chép: “Tân Hợi [951 Vua [tên húy là Xương Văn, con thứ của
Tiền Ngô Vương] đã truất bỏ Tam Kha, lên ngôi vua, xưng là Nam Tấn [Vương] sai
sứ đi đón anh là Xương Ngập về Kinh sư, cùng trông coi việc nước. Xương Ngập xưng
là Thiên Sách Vương”.
Lưu Phương truyện trong Tùy Thư chép: “Niên hiệu Nhân Thọ [601-604] gặp
khi người Lái ở Giao Châu là Lý Phật Tử làm loạn, chiếm cứ thành cũ của Việt
Vương, sai con của anh trai là Lý Đại Quyền đóng giữ thành Long Biên và biệt tướng
là Lý Phổ Đỉnh đóng giữ thành Ô Diên [Bản dịch của Châu Hải Đường]
- Không khó để nhận ra đâu là
thông tin hư cấu trong Việt điện u linh. Nhưng có một thông tin rất thú vị mà
Lý Tế Xuyên đã giữ lại cho chúng ta, ấy là tước hiệu của người giữ thành Ô Diên
Lý Tấn Đỉnh có tên An Ninh hầu. Toàn thư mục năm 1315 chép đến một nhân vật có
tên hiệu là An Ninh hầu, người này là thân phụ của Hưng Ninh vương.
Tuệ Trung thượng sĩ ngữ lục của Trần Nhân Tông chép: “Thượng Sĩ là con
đầu của Khâm Minh Từ Thiện đại vương và là anh cả của Hoàng thái hậu Nguyên
Thánh Thiên Cảm. Khi đại vương mất, hoàng đế Thái Tông cảm nghĩa, phong cho
Thượng sĩ tước Hưng Ninh vương”.
Toàn thư chép: “Đinh Dậu [1237] Lấy đất Yên Phụ, Yên Dưỡng, Yên Sinh, Yên
Hưng, Yên Bang cho Liễu làm ấp thang mộc. Nhân đất được phong, mà Liễu có
tên Hiệu là Yên Sinh Vương (…) Mậu Ngọ [1258] Lấy con gái thứ năm của Yên Sinh
Vương là Thiều làm Thiên Cảm phu nhân. Ít lâu sau, phong làm hoàng hậu”.
- Hưng Ninh vương Trần Tung là
con trai đầu của An Sinh vương Trần Liễu, do Toàn thư khi chép về tước hiệu của
Trần Liễu thường dùng là An Sinh vương nên khi mục năm 1315 chép là An Ninh
vương thì chúng ta nghĩ rằng sử gia đã chép lầm chăng ? Nhưng chưa hẳn!
Toàn thư chép: “Giáp Ngọ [1294] Quang Khải ham học hay thơ, có Lạc
đạo tập lưu hành ở đời. Con ông là Văn Túc Vương Đạo Tái cũng nổi
tiếng về văn học thời đó (…) Cháu [Quang Khải] là Uy Túc công Văn Bích làm Thái
bảo thời Minh Tông, chắt là Chương Túc quốc thượng hầu Nguyên Đán là Từ đồ đời
Nghệ Tông cũng có danh tiếng”.
- Ngoài Trần Quang Khải ra thì
Văn Túc vương Trần Đạo Tái, Uy Túc công Trần Văn Bích, Chương Túc thượng hầu
Trần Nguyên Đán đều có chữ Túc [có lẽ đây là đặc trưng của tước hiệu theo chiều
dọc] Trở lại với trường hợp của An Ninh vương Trần Liễu và Hưng Ninh vương Trần
Tung, cả 2 đều có chữ Ninh, xem ra tước hiệu của Trần Liễu là An Ninh vương không
phải do sử gia chép nhầm ? Thống kê thì thấy Trần Liễu có rất nhiều tước hiệu
như Phụng Càn vương, Hiển hoàng, Hoài vương, Anh Sinh vương, Khâm Minh Từ Thiện
đại vương nên có thêm An Ninh vương cũng không phải không thể. Về tước hiệu của
Trần Liễu thì đều có ý nghĩa cả, như Hiển hoàng tức là người kế cận với vị trí
hoàng đế, An Sinh vương thì là từ tên đất được phong, còn An Ninh vương có lẽ
là Trần triều mong muốn Trần Liễu quy phục, không làm loạn.
Bài Bản thần tích tại làng Thọ Lão, xã Thọ An, huyện Đan Phượng, tỉnh Hà
Tây của tác giả Nguyễn Đăng Sơn viết: “Tổ tiên trước là người Mân sang ở đất
Tức Mặc đến đời thứ 4, cha là Trần Thừa, mẹ là Lê Thị An. Nhà vua vốn là con
thứ, anh trai là Trần Liễu, chú là Trần Thủ Độ (...) Năm ngoài 30 tuổi, cha mẹ
vốn là dân sông nước, nằm mơ thấy Giao Long chui vào miệng mà sinh ra Trần
Liễu. Trần Liễu bẩm tính thông minh, trí tuệ đức độ hơn người (…) Trần Liễu lấy
vợ người ở đất Vạn Kiếp, họ Lã, tên huý là Hồng, làm Chính phi (…) Hồi còn nhà
Lý xưa, có một người cung phi hiệu là Thuận Thiên công chúa (…) Trần Liễu thấy
nàng liền lấy làm vợ. Được vài năm, Thuận Thiên có thai 3 tháng thì Trần Thủ Độ
lập mưu bắt hoàng đế lấy làm chính phi, lên ngôi hoàng hậu khiến cho Trần Liễu
rất phẫn uất (…) chống lại triều đình, ra hịch kêu gọi các anh hùng hào kiệt
làm thành đội quân làm loạn ở Đại Giang. Lúc đó, các địa phương như: Yên Phụ,
Yên Dưỡng, Yên Sinh, Yên Hưng, Yên Bang, Thọ Lão, Châu Trần, Nam Trấn, Hải
Dương ông đều chiếm giữ làm đất thang mộc. Tự xưng là Càn Vương (…) Lúc ông xây
dựng cung sở tại đất Thọ Lão, ông thường qua lại nuôi dưỡng binh lương ở nơi
đây. Ông là người nhân từ đức độ, nên nhân dân hết sức yêu mến khâm phục. Lúc
đó không người nào không mến mộ theo ông đi chiến trận (...) Một hôm Càn Vương
nằm nghỉ ở chính điện cung để ngủ thì bỗng thấy vị Quy thần và Điểu Sơn (…) khuyên
can ông nên quy hàng, chớ nên phóng túng làm loạn (...) bèn truyền cho tướng sĩ
giải hồi về quê. Để Lã Hậu sống ở đây, cung này giao cho nhân dân cùng trông
nom với hơn 100 gia thần thủ túc bảo vệ cung sở. Nhân dân ở đây đều vâng mệnh
(...) Nhà vua (…) cho những nơi ông đã đóng quân ngụ lộc làm đất thang mộc (…)
Càn Vương từ lúc trở về sống ở cung ấp thường đi nhàn du trong thiên hạ, ngắm
cảnh núi sông, giáo hóa dân chúng xây dựng mỹ tục, tối ngày vui chơi yên ấm với
các cổ tướng danh thần (…) Lúc này vương đã 58 tuổi. Lã Hậu đã hơn 40 tuổi. Một
hôm vào ngày 10 tháng 11, vương cùng Lã Hậu ban phát của cải, giao phó cung sở
cho nhân dân truyền làm lễ trai giới, rồi vào chùa Bảo Lâm dốc lòng tu thiền
(…) Các nơi như: Yên Phụ, Yên Dưỡng, Yên Sinh, Yên Hưng, Yên
Bang đều là nơi thang ấp. Còn đất Phù Hoa, Bố Chính, Lạng Sơn, Ái Châu, Tức
Mặc, Kinh Bắc, Thọ Lão, Châu Trần, Nam Định làm làng hộ nhi [là dân nơi đó hàng năm phục dịch việc hương
khói thờ cúng thần linh, không phải đi phu phen tạp dịch cho nhà nước nữa] Cộng
tất cả là 31 xã, trang làm chính sở (...) Hồng Phúc nguyên niên
(1572) ngày tốt đầu xuân. Lễ bộ Hàn lâm viện Đông các học sĩ Nguyễn Bính phụng
soạn. Ngày tốt tháng giữa thu năm Vĩnh Hựu thứ 5 (1739). Quản giám bách thần
Tri điện Hùng Lĩnh thiếu khanh thần Nguyễn Hiền phụng soạn bản. Đào Văn Tình Lý
trưởng xã Thọ Lão, tổng Thọ Lão đóng dấu”.
- Rõ ràng là vùng đất Thọ Lão
[liền kề với Hạ Mỗ] vẫn còn đượm những truyền thuyết kể về An Ninh vương Trần
Liễu và hai người con của ngài là Hưng Đạo vương Trần Quốc Tuấn và An Thành
vương. Về nhân vật An Thành vương thì hiện chưa xác định được.
4. Bài Hà Nội có thành Ô Diên của
tác giả Nguyễn Vinh Phúc viết: “Theo thần tích làng Chu Quyến hiện có ở thư
viện Hán Nôm thì Nhã Lang là con trưởng của Phật Tử với bà thứ phi Lã Thị Ngọc
Thành, người làng Chu Quyến [Ba Vì] (...) Còn Bát Lang, theo thần tích làng Hạ
Mỗ mà cụ Bùi Tất Uông (…) dịch từ 1984: Thần là con thứ 8 của Phật Tử với bà
phi tần tên là Liễu [Liễn] nương, con gái ông Đoạn [Đoàn] công quê ở làng Mao
Điền, phủ Thượng Hồng, trấn Hải Dương. Bát Lang được vua lập cung doanh ở Hạ
Mỗ, tức thành Ô Diên”.
Bài Đình Vạn Xuân của Lê Anh Tuấn viết: “Cuốn Thần phả do Hàn Lâm
viện Đông Các Đại học sĩ Nguyễn Bính soạn năm Hồng Phúc thứ nhất, đời vua Lê
Anh Tông (Nhâm Thân - 1572) còn lưu tại đây cho biết: Ngay sau khi hoàng tử Lý
Bát Lang mất, vua Lý Phật Tử đã lệnh cho nhân dân Hạ Mỗ lập miếu thờ trên phủ đệ
cũ của hoàng tử trong khu vực thành Ô Diên, người sau gọi là Quán Bét (đọc chệch
tiếng Bát) hay miếu Hàm Rồng chỗ ba dòng sông Sông Hồng, sông Đáy và sông Nhuệ,
gặp nhau ở đầu nguồn Nhuệ Giang. Đình Vạn Xuân ra đời sau miếu Hàm Rồng và cũng
là nơi thời thành hoàng Lý Bát Lang, nơi tổ chức sinh hoạt hội hè truyền thống
của làng”.
- Trong những bản Internet đăng tải bài của tác giả Nguyễn
Vinh Phúc thì phần lớn viết rằng thân mẫu của Lý Bát Lang là Liễu nương. An
Ninh vương có tên húy là Liễu. Về họ của bà Liễu nương phần nhiều ghi là Đoạn
nhưng chắc là do đánh máy nhầm, họ đúng phải là Đoàn ?
- Trong bài trước tôi có xác định nhân hình của Lý Bát Lang là
Ô Kim hầu Nguyễn Bát, nhưng theo Việt sử lược thì vào năm 1216 vị này bị Trần Tự
Khánh đánh, phải chạy về sách An Lạc [Vĩnh Phúc] Theo truyền thuyết thì Lý Phật
Tử cho nhân dân lập miếu thờ ngay trong phủ đệ của Lý Bát Lang. Như thế thì miếu
rất khó là để thờ Hiển Tín vương Lý Bát, vì trước hết Ô Kim hầu chưa chết và
sau cùng người chủ của vùng đất Ô Diên [sau năm 1216] không phải là người thân
của Nguyễn Bát.
- Sầm Lâu có 2 câu thơ như sau: “Tơi nón năm hồ hơn giữ ấn -
Dâu giai nội vượt phong hầu”. Qua đôi câu thơ chúng ta thấy tư tưởng ngoài đời
của Trần Toại, rõ ràng là Sầm Lâu không hề có cuộc sống vương giả. Nhưng Sầm
Lâu được gả cho công chúa Thụy Bảo, thì xem ra gia thế cũng không thường ? Toàn
thư cho biết năm 1237 Trần Liễu làm loạn, tuy được tha tội chết nhưng những bộ
tướng đi theo đều bị giết, con trai Trần Quốc Tuấn thì phải gửi nhờ người em là
công chúa Thụy Bà nuôi, cho tới khi mất vào năm 1251 thì mới được tấn phong lên
tước đại vương, vua Trần Thái Tông cảm nghĩ [về cái chết của Trần Liễu nên] mới
phong cho con trai đầu là Trần Tung tước Hưng Ninh vương. Rõ ràng là sau biến
loạn gia đình Trần Liễu gặp khá nhiều khó khăn.
Tiểu kết: Tôi đặt giả thuyết Uy Văn vương Trần Toại là con trai của An Ninh vương Trần Liễu.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét