Thứ Sáu, 16 tháng 11, 2018

VỆ VƯƠNG ĐINH TOÀN

Toàn thư chép: Hoàng thứ tử Đinh Toàn sinh năm 974, đến năm 978 được phong làm Vệ Vương, Hạng Lang được phong làm Hoàng thái tử.
* Theo ngài Tạ Chí Đại Trường thì Vệ Vương là chức vương phù trợ và vì Toàn được phong Vệ Vương đồng thời với Hạng Lang, nên ngài Tạ Chí Đại Trường cho rằng Hạng Lang và Toàn là anh em cùng mẹ.
Toàn thư chép: Mùa đông năm 979 Đinh Bộ Lĩnh và Đinh Liễn bị Đỗ Thích giết hại, Thập đạo tướng quân Lê Hoàn và bọn Đinh Điền, Nguyễn Bặc rước Vệ Vương lên ngôi hoàng đế. Mùa thu năm 980 quần thần mời Lê Hoàn lên ngôi hoàng đế, giáng Đinh Toàn làm Vệ Vương. Năm 1001 Lê Hoàn đánh giặc ở Cự Long [Thanh Hóa] Vệ Vương trúng tên, chết trận. Lê Đại Hành khêu trời 3 tiếng.
Việt sử lược chép sai khác vài sự kiện. Thứ nhất Đinh Toàn được phong Vệ Vương vào năm 972. Thứ hai Vệ Vương là con thứ, Hạng Lang là con út.
Theo cột đá do Đinh Liễn khắc tại Ninh Bình thì năm 973 Hạng Lang đã tranh ngôi với Nam Việt Vương, vậy Đinh Đính phải trưởng thành rồi. Lại theo Tống sử thì Toàn còn nhỏ tuổi --> vậy Toàn là con bà trưởng, còn Hạng Lang là con bà thứ, nên Vệ vương là chức vương phù trợ cho Đinh Liễn chứ không phải cho Hạng Lang. Toàn thư cho biết năm 972 Bộ Lĩnh sai Liễn đi sứ phương bắc, phải chăng đề phòng biến loạn khi Liễn vắng mặt tại Giao Châu nên Tiên Hoàng phong cho em trai của Liễn làm Vệ Vương ?
Toàn là em trai của Liễn mà năm 968 Liễn đã cùng cha đánh trận rồi, vậy Liễn lúc đó cùng phải 20 tuổi, lúc sinh Liễn bà Dương thị cũng phải khoảng 15 tuổi, nên đến khi Bộ Lĩnh chết Đại Thắng Minh hoàng hậu khoảng 20 + 15 + 10 = 45 tuổi --> chắc sử gia nhầm giữa 2 bà họ Dương là Đại Thắng Minh hoàng hậu (vợ của Bộ Lĩnh) với Đại Thánh Minh hoàng hậu (vợ của Lê Hoàn). Mà không chỉ có Bộ Lĩnh và Lê Hoàn lấy vợ họ Dương, trước sau có Ngô Quyền và Lý Công Uẩn cũng lấy người họ Dương.
Năm 993 Lê Hoàn được phong Giao Chỉ quận vương, cùng năm ngài lên ngôi hoàng đế, lúc này Đinh Toàn khoảng hơn 20 tuổi. Xem Toàn thư và Việt sử lược sẽ nhận ra 3 khoảng thời gian liên quan tới việc xưng đế của Lê Hoàn và cái chết của Đinh Toàn.
Khoảng 980-995 Đại Việt yên ổn. Khoảng 995-1001 các thủ lĩnh ở khắp nơi nổi lên chống Hoa Lư. Khoảng 1001-1005 Đại Việt lại yên. Chi tiết: năm 996 đánh bốn động Đại, Phát, Đan, Ba ở Ma Hoàng. năm 997 đánh giặc ở Đỗ Động Giang. năm 999 đánh Hà Động. năm 1000 đánh giặc ở châu Phong là bọn Trịnh Hàng, Trường Lệ, Đan Trường Ôn. năm 1001 đánh giặc Cử Long.
Tống sử chép: năm 995 Trương Quán tấu lên triều đình là nghe phong thanh rằng Lê Hoàn bị họ Đinh đuổi đi, Tống Thái Tông lệnh dò xét, thì bọn Trần Sĩ Long cũng nói như Trương Quán. Sau khi Đinh Toàn chết trận năm 1001, sử sách không ghi chép một cuộc chống Hoa Lư nào nữa
-----> Nên đặt giả thuyết rằng: sau khi cha và anh bị chết, Đinh Toàn được Lê Hoàn và Nguyễn Bặc rước lên làm vua, Lê Hoàn làm phó vương, đến năm 993 Hoàn có đủ điều kiện để làm hoàng đế nên đã phế Đinh Toàn làm Vệ Vương. Theo lẽ tự nhiên Đinh Toàn chống lại và kêu gọi sự ủng hộ của các thủ lĩnh địa phương, chiến sự kéo dài từ năm 995 đến 1001, năm Toàn chết.
P/S: Toàn chạy về Cự Long (Thanh Hóa) có lẽ đó là quê bà Dương thái hậu chăng ? Liệu bà Dương hậu này có mối quan hệ nào với Dương Đình Nghệ không ? Kiểu như Ngô Quyền ấy ?

TRẦN TRIỀU TỒN NGHI (ÍCH TẮC - TRẦN XÁN - QUANG XƯỞNG - AN TƯ - THỦ ĐỘ)


1. Chiêu Quốc vương Trần Ích Tắc
Toàn thư chép: “Ất Dậu [1285] Tháng 2 ngày giáp thìn mồng 1, con thứ của Tĩnh Quốc Đại Vương Quốc Khang là thượng vị Chương Hiến hầu [Trần] Kiện và liêu thuộc là bọn Lê Trắc đem cả quân đầu hàng quân Nguyên (…) Tháng 3, ngày giáp tuất mồng 1 hai vua bỏ thuyền đi bộ đến Thuỷ Chú. Lấy thuyền ra sông Nam Triệu (tức huyện Thuỷ Đường) vượt biển Đại Bàng vào Thanh Hóa. Thượng vị Văn Chiêu hầu [Trần ] Lộng đầu hàng Thoát Hoan. Kế đó, Chiêu Quốc Vương Trần Ích Tắc và bọn Phạm Cự Địa, Lê Diễn, Trịnh Long đem gia thuộc đầu hàng quân Nguyên” [Bản dịch của Viện khoa học xã hội Việt Nam]
An Nam chí lược chép: “Ngày đinh tị mồng 3, Trấn Nam vương đánh phá quân vua Trần tại sông Đại Hoàng. Tôn tử là Văn Nghĩa hầu Trần Tú Tuấn suất cả nhà ra đầu hàng (…) Ngày 15 mậu tí, em thế tử là Chiêu Quốc vương Trần Ích Tắc suất cả môn thuộc nội phụ” [Bản dịch của Viện Đại Học Huế 1961]
- Các sách sử chép khá rõ thứ tự ra hàng quân phương bắc như sau: đầu tiên là Chương Hiến hầu Trần Kiện, thứ đến là Văn Nghĩa hầu Trần Tú Viên và Chương Hoài hầu Trần Văn Lộng, sau cùng là Chiêu Quốc vương Trần Ích Tắc.
Toàn thư chép: “Trước kia, khi Ích Tắc chưa sinh. Thái Tông mộng thấy thần nhân ba mắt từ trên trời xuống nói với Thái Tông: "Thần bị thượng đế quở trách, xin thác sinh là con vua, sau lại trở về phương Bắc". Đến khi Ích Tắc sinh, giữa trán có vài vết lờ mờ như hình con bắt, hình dáng giống hệt người trong mộng. Đến 15 tuổi, thông minh hơn người, làu thông kinh sử  và các thuật, vẫn còn có ý tranh đoạt ngôi trưởng đích. Ích Tắc đã từng gửi thư riêng cho khách buôn ở Vân Đồn xin quân Nguyên xuống nam. Đến nay, người Nguyên vào cướp, Ích Tắc xin hàng chúng để mong được làm vua. Người Nguyên phong làm An Nam Quốc Vương”.
An Nam chí lược chép: “Trần Ích Tắc con thứ 5 của Thái vương, thông minh tuấn tú, có tính hiếu học. Lúc ở nước nhà được phong tước Chiêu Quốc vương, kiêm chức đại tướng quân, trấn giữ lộ Đà Giang (…) Tháng 4 năm sau [1329] Ích Tắc qua đời, hưởng thọ 76 tuổi, an táng tại núi Hạ Gia, đất Hán Dương”.
- Nguyên văn trong Toàn thư là “Thường hiệp tư thư ký Vân Đồn thương khách, khất Nguyên sư Nam hạ”. Thường [] có nghĩa là Đã Từng. Cứ theo câu chữ thì Chiêu Quốc vương đã từng gửi thư cho người phương bắc xin đem quân xuống phương nam.
- Nguyên văn trong Toàn thư là “Niên thập ngũ, thông minh quá nhân, thông thư sử, cập chư kĩ thuật, tiềm hữu đoạt đích chi tâm”. Tiềm Hữu [ ] theo tôi nên hiểu là Ngầm Có. Nên vào thời điểm người Nguyên Mông xuống phương nam không biết Chiêu Quốc vương có còn ý tranh đoạt ?
Toàn thư chép: “Đinh Mão [1267] Tháng 5, phong em là Ích Tắc làm Chiêu Quốc Vương. Ích Tắc là con thứ của Thượng hoàng, thông minh hiếu học, thông hiểu lịch sử, lục nghệ, văn chương nhất đời (…) Mậu Thìn [1268] Mùa xuân tháng giêng, vua từng nói với tôn thất rằng: "Thiên hạ là thiên hạ của tổ tông, người nối nghiệp của tổ tông phải cùng hưởng phú quý với anh em trong họ. Tuy bên ngoài có một người ở ngôi tôn, được cả thiên hạ phụng sự, nhưng bên trong thì ta với các khanh là đồng bào ruột thịt. Lo thì cùng lo, vui thì cùng vui. Các khanh nên truyền những lời này cho con cháu để chúng đừng bao giờ quên, thì đó là phúc muôn năm của tông miếu xã tắc". Đến đây, xuống chiếu cho các vương hầu tôn thất, khi bãi triều thì vào trong điện và lan đình. Vua cùng ăn uống với họ. Hôm nào trời tối không về được thì xếp gối dài, trải chăn rộng, kê giường liền cùng ngủ với nhau để tỏ hết lòng yêu quý nhau. Còn như trong các lễ lớn như triều hạ, tiếp tân, yến tiệc thì phân biệt rõ ngôi thứ, cấp bậc cao thấp. Vì thế, các vương hầu thời ấy không ai là không hòa thuận, kính sợ và cũng không phạm lỗi khinh nhờn, kiêu căng”.
- Theo như An Nam chí lược thì Trần Ích Tắc sinh năm 1254, đến năm 1267 được phong làm Chiêu Quốc vương, vào năm 1268 Tắc 15 tuổi. Nhưng tháng giêng năm mậu thìn Thánh Tông Trần Hoảng ban chiếu với nội dung vỗ về anh em trong họ. Nên tôi cho rằng thời điểm Chiêu Quốc vương có ý tranh đoạt ngành đích là khi ngài khoảng 15 tuổi. Hoàn toàn phù hợp với chữ Thường mà Ngô sử gia đã dùng.
Toàn thư chép: “Canh Ngọ [1330] Tá thánh thái sư Chiêu Văn Đại Dương Nhật Duật mất (thọ 77 tuổi) (…) Cuối niên hiệu Thiệu Bảo [1279-1285] ông giữ trại Thu Vật ở Tuyên Quang. Giặc Hồ vừa xâm phạm bờ cõi, Chiêu Quốc tâu với vua rằng: "Chiêu Văn ở Tuyên Quang, chắc ở trên đó gọi giặc sang rồi" (Nhật Duật thích chơi với người Tống nên Chiêu Quốc nói thế). Khi Tuyên Quang thất thủ, Nhật Duật thuận dòng rút về xuôi”.
Bài ký chuông Thông Thánh quán ở Bạch Hạc viết: “Cuối đông năm Giáp Thân [1284] giặc bắc đến xâm lược, bấy giờ Khai Quốc vương trấn thủ các châu lộ Tuyên Quang” [Bản dịch của Đinh Khắc Thuân]
- Theo như Toàn thư thì khi giặc phương bắc xâm phạm bờ cõi vào cuối mùa đông năm 1284, Chiêu Quốc vương đã tấu với Thánh Tông rằng “Chiêu Văn gọi giặc sang rồi”. Thứ nhất lời tấu của Ích Tắc chắc chắn phải xảy ra sau khi triều đình nhận được tin giặc Hồ xâm phạm và thứ hai qua lời tấu của Chiêu Quốc cho thấy Ích Tắc nghĩ Chiêu Văn đã làm phản.
- Ngô sử gia cho biết thêm, vì Chiêu Văn thường qua lại với người Tống nên khi giặc Hồ xâm phạm, Chiêu Quốc đã cho rằng Nhật Duật làm phản, do đó chúng ta có thể khẳng định vào thời điểm người phương bắc xâm phạm lãnh thổ Chiêu Quốc vương Trần Ích Tắc chưa có ý định làm phản.
- Xem lời tầu của Chiêu Quốc đối với Thánh Tông về Chiêu Văn không phải không có cơ sở, bởi vì Ích Tắc giữ lộ Đà Giang còn Chiêu Văn giữ trại Thu Vật. Như thế Chiêu Văn phía trước còn Chiêu Quốc phía sau.
An Nam chí lược chép: “Gửi thân qua chầu triều, đã bỏ phe nghịch mà quy thuận (…) An Nam quốc vương Trần Ích Tắc biết sợ mạng trời mà thờ nước lớn (…) tự nguyện đến hàng”.
Sách Trần Nhân Tông con người và tác phẩm của tác giả Lê Mạnh Thát viết: “ Vi thần liền trốn ở góc biển, lâu ngày bị bệnh tật, đường sá xa xôi, thủy thổ khó khăn. Mạng sống tuy liên hệ với số trời, nhưng tình người thì lại rất sợ chết mất. Thêm vào đó, đại quân đã lắm lần chinh phạt, giết cướp lại nhiều. Anh em không kẻ hiền lương, dựng chuyện tâu sàm không ít. Trước đây, quốc thúc Di Ái rõ ràng trốn mất ở ngoài biên cảnh, bèn trở ngược vu cáo thần là đã làm việc chuyên giết. Lại người em giữa Ích Tắc tự đem mình đến trước đại quân xin vái đầu hàng. Ấy là muốn đến trước để lập công cho mình. Huống nữa là những người đến thay mà tâu bày, thì lại càng thêm ngoa dối. Vi thần thập tử chứ không có một chút sống nào” [Tờ biểu tháng tư năm Chí Nguyên thứ 25]
An Nam chí lược chép: “Nội phụ An Nam quốc công Thiện Lạc lão nhân. Xuất Quốc. Bỏ nước ra đi nhớ tự ngày – Lòng trung cánh cánh có trời hay – Chẳng qua Vi Tử buồn Ân mất – Há phải Văn Công trốn nước ngoài – Nghề mọn cơ cầu noi nghiệp trước – Tiếng thơm sử sách để sau nầy”.
Ghi chú của người dịch: “Vi Tử là anh của vua Trụ nhà Ân. Vua Trụ hoang dâm, Vi Tử can ngăn không được, bèn bỏ đi. Văn Công là công tử nhà Tấn, bỏ trốn trong lúc nước có nạn, sau về phục quốc. Chữ cơ cầu dùng chỉ nối nghiệp cũ của ông cha”.
- Qua các thông tin trong sách sử như “sợ mạng trời, bỏ phe nghịch mà quy thuận, xin đầu hàng để lập công trước” thì rõ ràng là khi quân phương bắc vào xâm chiếm, Chiêu Quốc vương chưa phản lại Thánh Tông. Nhưng khi chiến sự xảy ra, Trần Hoảng liên tục thua trận. Ban đầu là trận Nội Bàng, thứ đến là trận Vạn Kiếp, tiếp theo là trận Đại Hoàng, cuối cùng khi Thánh Tông buộc phải chạy trốn vào Thanh Hóa, thì Ích Tắc mới trở giáo ra hàng.
- Có rất nhiều nhận định về sự kiện Chiêu Quốc vương hàng người Nguyên cũng như con người Trần Ích Tắc theo thời gian, người viết xin không bàn thêm mà chỉ muốn nêu đoạn sử trong Toàn thư mục năm 1293 như sau “Ích Tắc là chỗ tình thân cốt nhục, tuy trị tội cũng thế, nhưng không nỡ đổi họ xóa tên, chỉ gọi là Ả Trần, có ý chê hắn hèn nhát như đàn bà vậy”. Nếu đem đặt cùng Chiêu Văn thì đúng là khác nhau.
2. Chiêu Đức vương Trần Xán
Nguyên sử viết: “Tháng tám [1284] em Nhật Huyên là Chiêu Đức vương Trần Xán gửi thư đến Kinh Hồ Chiêm Thành hành sảnh, tự nguyện nạp khoản quy hàng” [Bản dịch của Châu Hải Đường]
Ghi chú của người dịch: Có lẽ Trần Xán ở đây chính là Chiêu Quốc vương Trần Ích Tắc. TB.BK.q5 chép việc Trần Ích Tắc “từng gửi thư riêng nhờ bọn lái buôn ở Vân Đồn xin nhà Nguyên đem quân xuống nước Nam”.
- Trên chúng ta đã đưa ra những bằng chứng cho thấy khi quân Nguyên Mông xâm phạm lãnh thổ nước Nam, Trần Ích Tắc chưa có ý định làm phản Thánh Tông nên Trần Xán không phải là Chiêu Quốc vương.
An Nam chí lược chép: “Trần Trọng Vy tự là Trí Quảng, người Thụy Châu, thi đậu khoa Mậu Tuất [1238] niên hiệu Gia Hy đời Tống Lý Tông [1225-1264] Năm Bính Tí [1276] niên hiệu Chí Nguyên [1264-1294] nhà Nguyên, quan quân vào bắt ấu chúa, cả nước đều quy thuận, hai vua chạy xuống phía nam, Trọng Vy từ Quỳnh Châu vào yết kiến, đến Quảng Châu được cử làm Lại bộ thượng thư (…) Nhà Tống mất, Trọng Vy chạy vào An Nam, rất được vua Trần Thánh Tông trọng đãi (…) Ở An Nam được vài năm thì mất, Tăng Uyên Tử vãn một bài thơ rằng: Giang Nam chim một cặp – Gãy cánh tựa nước nhau (…) Sau quốc đệ nước An Nam là Trần Thôi bị tội, lén khiến con của Trọng Vy là Trần Văn Tôn qua Trung Quốc đánh An Nam. Mùa đông năm giáp thân, đại binh qua đánh nước An Nam, Trấn Nam vương cho Trần Văn Tôn làm thiên hộ để dẫn đường. Vua Thánh Tông nhà Trần cả giận, khiến bổ quan tài Trọng Vy”.
- Chữ Thôi [ ] và chữ Xán [ ] được sử dụng tương tự như từ ghép Thôi Xán [ ] đều mang nghĩa Ánh Sáng Ngọc. Lại thêm, Trần Thôi và Trần Xán đều là em trai của Nhật Huyên, cũng như đều gửi thư cho người Nguyên xin nam hạ. Nên tôi cho rằng Chiêu Đức vương còn tên khác là Trần Thôi.
- Theo An Nam chí lược thì Trần Thôi lén sai Trần Văn Tôn đem thư sang Kinh Hồ Chiêm Thành hành sảnh chứ không phải gửi lái buôn tại Vân Đồn. Vì thế Chiêu Đức vương không phải là Trần Ích Tắc.
Toàn thư chép: “Quý Mùi [1283] Tháng 2, trị tội thượng vị hầu Trần Lão, cho Lão chuộc tội một ngàn quan tiền, đồ làm lính, lăng trì tên Khoáng là gia nô của Lão ở chợ Đông, vì tội làm thư nặc danh phỉ báng nhà nước”.
Bài Ả Trần, Mai Kiện, Hồi Hột - Phía khuất của Sử-được-kí do tác giả Tạ Chí Đại Trường viết: “Tước Thượng vị hầu chứng tỏ Trần Lão là con một bà Phi theo thứ tự sắp xếp năm 1241. Lê Tắc nhắc đến một người bị tội, cầu cứu quân Nguyên, tên Trần Thôi là “quốc đệ” theo cách nhìn từ phía Nguyên là em (thượng hoàng) Thánh Tông, hẳn là Trần Lão của sử Việt, chắc tên riêng bị bỏ, chỉ còn là thằng cha - già - lão Trần”.
- Tác giả Tạ Chí Đại Trường cho rằng Trần Thôi trong An Nam chí lược là Trần Lão trong Toàn thư. Tuy nhiên Trần Thôi giữ tước vương trong khi Trần Lão giữ tước hầu nên tôi cho rằng Chiêu Đức vương không phải là Trần Lão.
An Nam chí lược chép: “Tăng Uyên Tử tự là Quảng Trưng, người Vũ Châu, thi đậu khoa Canh Tuất [1250] niên hiệu Thuần Hữu [1241-1252] đời Tống Lý Tông (…) cho làm Lâm An phủ doãn, coi việc tham chính phủ (…) Niên hiệu Chí Nguyên năm Bính Tí, đại binh vào Hàng Châu, ấu chúa nhà Tống ra hàng, nhị vương vượt biển đến Quảng Châu, Uyên Tử yết kiến, được cho làm Quảng Tây tuyên úy sứ, kiêm quản Lôi Châu (…) Uyên Tử chạy qua An Nam, rất được Trần Thái Vương trọng đãi. Mùa đông năm giáp thân, niên hiệu Chí Nguyên, đại binh vào An Nam, Uyên Tử đem chúng qui phục”.
An Nam chí lược chép: “Tắc có giao du với người bạn văn học tên Chu Khởi, người ở Mân Trung. Nguyên trước Chu Khởi cùng tôi nhà Tống là Tăng Uyên Tử di cư qua An Nam, sau theo Chương Hiến hầu quy thuận”.
Nguyên sử chép: “Nhật Huyên trốn chạy, truy đuổi đến cửa biển Giao Hải thì không tìm được nữa. Người trong tôn tộc là Văn Nghĩa hầu, cùng cha là Vũ Đạo hầu, con là Minh Trí hầu, con rể là Chương Hoài hầu và Chương Hiến hầu; quan cũ nhà Tống là Tăng tham chính, con trai Tô thiếu bảo là Tô Bảo Chương, con trai Trần thượng thư là Trần Văn Tôn cùng nối nhau dẫn quân ra hàng”.
Trần Tú Viên thần đạo bi viết: “Họ Trần được nước, truy hiệu Thắng làm Thái Tổ, Thẩm làm An Quốc Vương. Con của Thẩm là Túc Kính làm Vũ Đạo vương. Vũ Đạo vương lấy Trình thị, sinh 3 người con trai, ông là con trưởng, húy là Tú Viên, được phong làm Văn Nghĩa hầu (...) Trấn Nam vương đem đại quân tiến vào biên giới, Nhật Huyên giữ chỗ hiểm để chống cự, nhiều lần bị thua. Vương qua sông, bắt tù tại cung điện Nhật Huyên. Con em của ông bèn trình với Vũ Đạo rằng nhà Nguyên đang hưng thịnh, vạn quốc thần phục, nhà ta không sợ mệnh trời mà chống cự, thật là việc làm nghiêng đổ tông miếu, tàn hại sinh dân, ai là người sẽ chuyển họa thành phúc, ôm đồ tế khí mà bảo tồn miếu thờ tổ tiên, Vũ Đạo nghe theo, bèn xin hàng”.
- Theo như sách sử thì vào ngày 28/01 (05/03/1285) Hưng Đạo vương xin thượng tướng thái sư Trần Quang Khải đem quân vào Nghệ An. Ngày 01/02 (08/03/1285) Chương Hiến hầu Trần Kiện giữ Thanh Hóa ra hàng quân Nguyên. Ngày 02/02 (09/03/1285) Giảo Kỳ vượt sông Vệ Bố phá quân Trần, giết 2 tướng Đinh Xa và Nguyễn Tất Dũng.
- Sách An Nam chí lược chép rằng Trần Kiện là con của Tịnh Quốc vương, thay cha lĩnh chức Tịnh Hải quân tiết độ sứ, cưới con gái của thái sư Chiêu Minh vương là nàng Quỳnh Huy. Chương Hiến thượng hầu vì có hiềm khích với con trai của Thánh Tông là Tá Thiên vương nên giả học đạo Trang Lão, ẩn cư tại làng Nhân Mục. Sau khi Thánh Tông được tin Chiêu Văn vương thua tại Diễn Châu, nên hoảng hốt không tính được kế gì bèn khởi phục Trần Kiện sai đem quân cự Toa Đô, nhưng do sức yếu lại không có viện binh nên Chương Hiến hầu cùng vài vạn người dâng binh khí xin hàng. Như thế rõ rằng Trần Kiện không có ý định xin người Nguyên nam hạ.
- Theo như sách sử thì ngày 03/02 (10/03/1285) Trấn Nam vương đánh bại Thánh Tông tại sông Đại Hoàng. Vũ Đạo hầu, Văn Nghĩa hầu, Minh Trí hầu, Chương Hoài hầu ra hàng.
Bia ma nhai trên núi Cô Phong viết: “Đời vua thứ 2 nhà Trần, có một người tu hành từ phía nam tới, thiền sư mở tiệc trên núi Cô Phong, nhờ ân huệ của An Quốc đại vương, lại mở ra nham Bảo Phúc, cho mãi mãi thờ cúng” [Bản dịch trong sách Văn bia thời Lý Trần của Lâm Giang - Phạm Văn Thắm - Phạm Thị Thoa]
- Theo Toàn thư mục năm 1264 thì An Quốc vương là anh trai của Trung Vũ vương Trần Thủ Độ, theo mộ bia của Trần Tú Viên thì An Quốc vương có tên là Thẩm, có con trai là Vũ Đạo hầu Trần Túc Kính. Núi Cô Phong và sông Đại Hoàng đều thuộc Ninh Bình.
- Theo như Nguyên sử thì Chương Hoài hầu Trần Văn Lộng là con rể của Vũ Đạo hầu. Lại thêm, Toàn thư không chép việc Văn Nghĩa hầu ra hàng quân Nguyên nhưng có chép việc Văn Chiêu hầu ra hàng Thoát Hoan. Như thế rõ rằng Vũ Đạo hầu, Văn Nghĩa hầu, Chương Hoài hầu đồng thời ra hàng Trấn Nam vương sau trận Đại Hoàng.
An Nam chí lược chép: “Khi đại binh đã lên đường (…) Thế Tử lại sai Nguyễn Văn Hàn đi xin đình việc quân. Mùa đông năm ấy [1284] đại binh của Trấn Nam vương đến biên cảnh, bắt Hàn làm hướng đạo, phá được của ải Nội Bàng, Trấn Nam vương mừng và tha Văn Hàn cho về dụ chúa đầu hàng sớm. Thế Tử không nghe, Văn Hàn bèn dụ tôn tử Văn Nghĩa hầu Trần Tú Viên đem gia quyến qui thuận”.
- Theo như mộ bia của Trần Tú Viên thì rất có thể Văn Hàn dụ hàng Trần Tú Viên sau khi Thoát Hoan chiếm được Thăng Long và theo như An Nam chí lược thì rất có thể Văn Hàn dụ hàng Văn Nghĩa hầu trước khi Thánh Tông trấn giữ sông Đại Hoàng, nhưng có lẽ Trần Tú Viên chưa nghe. Sau trận thua tại sông Đại Hoàng, Văn Nghĩa hầu mới ra hàng.
- Qua chi tiết con em của Trần Tú Viên trình với Vũ Đạo hầu về việc ra hàng và được Trần Túc Kính nghe theo cho thấy gia tộc của Văn Nghĩa hầu không có ý định gửi thư xin người phương bắc nam hạ.
Nguyên sử chép: “Các quân của Đường Ngột Đãi và Toa Đô lại từ Chiêm Thành đến cùng hội với đại quân. Từ khi vào địa giới (An Nam) lớn nhỏ đã giao tranh bảy lần (…) Ban đầu thì đánh bại quân của Chiêu Minh vương nước ấy, đánh Chiêu Hiếu vương, các đại liêu thuộc hộ vệ đều chết (…) Lại ở An Diễn châu, Thanh Hóa, Tràng An bắt được con rể của Trần thượng thư nhà Tống trước đây, Lương phụng ngự của Giao Chỉ cùng bọn Triệu Mạnh Tín, Diệp lang tướng hơn bốn trăm người (…) Đường Ngột Đãi, Lưu Khuê đều nói Chiêm Thành không có lương ăn, quân khó có thể đóng lại lâu. Trấn Nam vương lệnh cho Toa Đô dẫn quân Nguyên ở Tràng An và các nơi chuyển lương đến”.
- Sau khi đầu hàng, ngày 06/02 (13/03/1285) Giảo Kỳ sai Chương Hiến hầu Trần Kiện đánh Chiêu Minh vương Trần Quang Khải tại bến Phú Tân, giết Chiêu Hiếu hầu. Thánh Tông Trần Hoảng trước thì thua ở sông Đại Hoàng, sau em trai là Chiêu Minh vương thua ở bến Phú Tân nên sai Trung Hiến hầu Trần Dương đến gặp Thoát Hoan xin hòa và lại sai người cận thần là Đào Kiên đưa quốc muội đến chỗ Trấn Nam vương xin hòa.
- Thứ nhất theo như An Nam chí lược thì ban đầu Chu Khởi cùng với Tăng Uyên Tử cùng vào Giao Chỉ, Tử được Thánh Tông trọng đãi, sau tham chính đem mọi người ra hàng, như thế trong đoàn người nhập nam, Tử có tiếng nói. An Nam chí lược chép thêm rằng Tăng tham chính cùng Mã Vượng, Vương Phục, Khả Văn Kiệt, Tô Cảnh Do nhập nam, theo Nguyên sử thì Tăng tham chính và con trai của Tô thiếu bảo là Tô Bảo Chương [Cảnh Do] cùng ra hàng. Chu Khởi ra hàng Toa Đô cùng Chương Hiến hầu.
- Thứ hai đối chiếu ghi chép của Nguyên sử với An Nam chí lược, Toàn thư thấy có sự sai khác, cụ thể là Chương Hiến hầu ra hàng Toa Đô tại Thanh Hóa vào ngày 01/02 trong khi Văn Nghĩa hầu ra hàng Thoát Hoan tại Ninh Bình vào ngày 03/02 nên Nguyên sử đoạn này chép lấy nội dung chứ không phải chép chi tiết.
- Thứ ba đoạn sử trong An Nam truyện chép rằng Toa Đô đánh bại Chiêu Minh vương và bắt được hơn 400 người cũng là chép gộp nhưng dù sao cũng cho chúng ta biết Toa Đô đã bắt được Triệu Mạnh Tín, Diệp lang tướng, Lương phụng ngự và đặc biệt là con rể của Trần thượng thư nhà Tống.
- Thứ tư theo Nguyên sử thì Trấn Nam vương quản hạt các vùng Trường Yên, Thanh Hóa, An Diễn qua chi tiết điều quân tại Trường Yên chuyển lương.
- Thứ năm nguyên văn của An Nam truyện là “kỳ tông tộc văn nghĩa hầu, phụ võ đạo hầu cập tử minh trí hầu, tế chương hoài hầu tịnh chương hiến hầu, vong tống quan tăng tham chính, tô thiếu bảo tử tô bảo chương, trần thượng thư tử trần đinh tôn, tương kế suất chúng lai hàng”. Chữ Tịnh [] có nghĩa là Ngang Nhau. Nên tôi cho rằng câu văn mô tả 2 nhóm người là nhóm tôn tộc gồm Vũ Đạo hầu, Văn Nghĩa hầu, Minh Trí hầu, Chương Hoài hầu và nhóm còn lại gồm Chương Hiến hầu, Tăng Uyên Tử, Tô Bảo Chương, Trần Văn Tôn. Cách hiểu câu văn như trên hoàn toàn phù hợp với mộ bia của Trần Tú Viên là công côn đệ vu võ đạo.
- Từ 5 điều trên tôi cho rằng: nhóm lưu dân nhà Tống trong đó có Tăng Uyên Tử, Trần Văn Tôn ra hàng Toa Đô đồng thời hoặc sau không lâu sự kiện Chương Hiến hầu Trần Kiện dâng binh khí xin hàng tại Thanh Hóa.
Nguyên sử chép: “Nhị thập nhất niên, Trấn Nam vương Thoát Hoan chinh Giao Chỉ, chiếu Toa Đô soái sư lai hội, bại Giao Chỉ binh vu Thanh Hoá phủ, đoạt nghĩa an quan, hàng kỳ thần Chương Hiến, Chiêu Hiển. Thoát Hoan mệnh Toa Đô đồn Thiên Trường dĩ tựu thực, dữ đại doanh tương cự nhị bách dư lý” [Toa Đô truyện]
- Theo An Nam chí lược quốc đệ Trần Thôi lén sai Trần Văn Tôn xin người Nguyên nam hạ, khi người phương bắc xâm phạm bờ cõi Trần Văn Tôn đã dẫn đường, làm Thánh Tông Trần Hoảng tức giận mà bổ quan tài của Trần Trọng Vy. Theo Nguyên sử thì khi Toa Đô tiến vào Thanh Hóa thì Trần Kiện cùng các quan lại cũ của nhà Tống ra hàng trong đó có Trần Văn Tôn và người anh em rể.
- Theo An Nam chí lược khi Thế Tử quẫn bách đã khởi phục sai Chương Hiến hầu đem mấy vạn người chống cự Toa Đô ở Thanh Hóa, sau cũng vài vạn người này theo Chương Hiến hầu ra hàng.
- Theo Nguyên sử thì khi Toa Đô vào địa giới đã bắt được hơn 400 người lưu vong từ phương bắc trong đó có con rể của Trần thượng thư. Lại thêm, trên chúng ta có đưa ra bằng chứng cho thấy Trần Kiện không có ý định gọi người Nguyên đến. Nên tôi cho rằng vị Chiêu Đức hầu Trần Xán, người đã sai Trần Văn Tôn sang phương bắc xin người Nguyên nam hạ có ấp phong tại Thanh Hóa – Trường Yên, nơi mà có lưu dân phương bắc cư trú trong đó có gia đình Trần thượng thư và vị quốc đệ Trần Thôi có quan hệ với những người lưu dân từ phương bắc tới. Có thể tương tự như trường hợp của Chiêu Văn vương vì quý trọng người Tống nên lưu lại làm môn tường.
- Theo Nguyên sử thì khi Toa Đô vào địa giới đã giao tranh tới 7 lần, giành hơn hai ngàn dặm đất và 4 tòa vương cung. Toàn thư mục năm 1270 có chép sự kiện Tĩnh Quốc vương cho dựng phủ đệ tráng lệ khác thường tại Diễn Châu.
- Theo Nguyên sử thì ngoài Chương Hiến hầu ra thì Toa Đô còn hàng phục thêm một vị được chép là Chiêu Hiển [] liền trước Chiêu Hiển là Chương Hiến như thế Chiêu Hiển là tên hiệu.
- Khó khăn nằm ở chỗ cả Toàn thư, An Nam chí lược, An Nam truyện trong Nguyên sử đều không thấy chép về ngài Chiêu Hiển. Thấp thì Chiêu Hiển có tước hầu, cao thì ngài giữ tước vương, lại thêm trong tên hiệu có chữ Chiêu, qua thống kê chúng ta thấy phần nhiều chữ Chiêu có trong tên hiệu của những người anh em ruột với Thánh Tông Trần Hoảng như thế vị Chiêu Hiển cũng không tầm thường. Nhưng Lê Tắc lại không đề cập đến khi Chương Hiến hầu ra hàng Toa Đô nên có thể Chiêu Hiển ra hàng sau và rất có thể cùng thời điểm với Tăng Uyên Tử, Trần Văn Tôn.
Nguyên sử chép: “Em Nhật Huyên là Chiêu Quốc vương Trần Ích Tắc đem tôn tộc cùng vợ con, lại thuộc đến hàng. Bèn sai bọn Minh Lý Tích Ban đưa Chương Hiến hầu, Văn Nghĩa hầu cùng em là Minh Thành hầu, con của Chiêu Quốc vương là Nghĩa Quốc hầu về triều. Văn Nghĩa hầu được lên phía bắc, còn Chương Hiến hầu, Nghĩa Quốc hầu đều bị Hưng Đạo vương chặn đánh, Chương Hiến hầu chết, Nghĩa Quốc hầu thoát thân quay về trong quân”.
Sách Thơ văn Lý Trần viết: “Khảo đính. Các dị bản VATT, TVTL1, TVTL2, TVTL3, HVTT. HVTT vãn thiếu sư Trần Trọng Trưng, TVTL1 vãn thiếu bảo Trần Trọng Trưng, TVTL1 vãn thiếu bảo Trần Trọng Vi. Chú thích. Trần Trọng Trưng tự là Tri Quảng là bề tôi kỳ cựu và trung thành của nhà Nam Tống (…) Vua Thánh Tông rất trọng đãi ông. Khi ông mất Thánh Tông làm bài thơ viếng”.
- Trong những người mà Nguyên sử chép đến khi sai Minh Lý Tích Ban đưa về triều không có Chiêu Quốc vương. Có lẽ Trấn Nam vương muốn dựng chính quyền thân triều đình nên giữ Ích Tắc lại ? Cũng không thấy sách sử chép về Chiêu Hiển nên rất có thể Chiêu Hiển chết trước khi cánh quân phía nam hội với Thoát Hoan.
- Sau khi hàng Toa Đô, ngày 06/02 Giảo Kỳ sai Chương Hiến hầu đánh Chiêu Minh vương tại bến Phú Tân. Đây là trận đánh lớn, Đại Việt có Chiêu Minh vương, con trai là Văn Túc vương Trần Đạo Tái, Tá Thiên vương Trần Đức Việp, Chiêu Hiếu vương và các Đại liêu tham dự, tại trận này Chiêu Hiếu vương và các đại liêu tử trận. Nên rất có thể cũng giống như Chương Hiến hầu, Chiêu Hiển sau khi đầu hàng được sai đi đánh Chiêu Minh vương nhưng khác Trần Kiện về kết cục.
- Tôi cho rằng Chiêu Hiển không cùng ra hàng Toa Đô với Chương Hiến, vì thế mà Chiêu Hiển và Trần Kiện nhận lệnh đi đánh Phú Tân từ 2 người khác nhau, Chương Hiến nhận lệnh từ Giảo Kỳ còn Chiêu Hiển nhận lệnh từ Toa Đô. Qua việc Toa Đô nhận lệnh thu gom lương thực tại Trường Yên thì có khả năng, Giảo Kỳ và Toa Đô đã tách nhau ra sau khi Trần Kiện hàng. Giảo Kỳ ở lại cùng Chương Hiến còn Toa Đô tiến về Trường Yên buộc Chiêu Hiển cùng Tăng Uyên Tử, Trần Văn Tôn ra hàng.
- Theo như An Nam chí lược thì Trần Văn Tôn được Quốc đệ Trần Thôi lén sai sang Nguyên cầu binh và Văn Tôn được phong làm Thiên hộ dẫn đường. Như thế trước là được phong chức tước, sau là khi quân Nguyên Mông tiến vào địa giới Văn Tôn ở cùng Trấn Nam vương. Nhưng khi Toa Đô từ nam tiến ra thì Trần Văn Tôn lại ra hàng. Việc này cho phép chúng ta suy đoán, sau khi Thoát Hoan lấy được Thăng Long, Trần Văn Tôn trở về báo với Chiêu Đức vương và có thể họ đã ra hàng Toa Đô.
- Thế nhưng nếu Trần Xán ra hàng thì với cương vị là Quốc Đệ thì ngài phải được giữ chức tước, nên rất có thể Chiêu Đức đã chết. Lại thêm, Nguyên sử có chép về Trần Văn Tôn ra hàng nhưng không thấy chép đến Trần Xán. Có thể do Nguyên sử chép gộp nên những cái tên được chép đến là những người bái kiến Trấn Nam vương, nói cách khác là những người còn sống tại thời điểm gặp Thoát Hoan, còn những người tuy có hàng nhưng đã chết trước khi bái kiến Trấn Nam vương thì không được chép.
- Khó khăn cuối cùng đến từ tước hiệu, rõ ràng Chiêu Đức và Chiêu Hiển là khác nhau. Người viết buộc phải dừng mà không thể đi xa hơn nữa, tuy nhiên cũng xin nêu 2 hướng mà người viết cho là khả dĩ: thứ nhất liên quan tới kỵ húy vì Toàn thư mục năm 1304 có nhắc đến chữ Đức, thứ hai liên quan tới thần tích thần phả chẳng hạn như tại đình Ngọc Động thôn Ngọc Động xã Đa Tốn, huyện Gia Lâm có bài vị có 3 danh tướng người họ Đào là Độ Thống đại vương, Chiêu Hiển đại vương, Tam Lang đại vương hoặc đình Công Hà thôn Công Hà xã Hà Mãn huyện Thuận Thành thờ 3 vị tướng thời Hùng vương là Chiêu Trung đại vương, Chiêu Hiển đại vương, Diệu Quang đại vương hoặc theo danh mục tên thần do Viện nghiên cứu Hán Nôm thống kê thì vị trí số 94 có Đào Hiển (Chiêu Hiển đại vương) Nam Định tỉnh Vụ Bản phủ La Xá tổng các xã thần tích (AE.a15/30). Vị trí của Vụ Bản khá gần với Trường Yên, có thể bản thần tích về Chiêu Hiển đại vương sẽ cho thêm manh mối.
3. Tạp
3.1 Sơn trưởng Trần Tôn
An Nam chí nguyên chép: “Châu Vũ Ninh có núi Lạn Kha, liền nối nhau hàng vài trăm dặm, trên núi có bàn cờ bằng đá, tương truyền rằng xưa có hai vị tiên ngồi đánh cờ ở đó (…) Họ Trần từ lập thư viện Lạn Kha ở đây, dùng danh nho Trần Tôn làm sơn trưởng, dạy dỗ các sinh đồ, vua Trần thỉnh thoảng cũng đến vãng cảnh, mở yến ăn tết trùng dương”.
- Theo như khảo đính của sách Thơ văn Lý Trần thì Trần Trọng Vy còn có tên khác là Trần Trọng Trưng, thông tin này không phải không có cơ sở bởi ngay trong An Nam chí lược, Lê Tắc chép tên khác của Trần thượng thư là Trọng Huy.
- Thú vị là các tài liệu mà Thơ văn Lý Trần dẫn lại cho biết Trần Trọng Vy giữ chức thiếu sư hoặc thiếu bảo, trong khi An Nam chí lược cũng như Nguyên sử cho biết Vy làm thượng thư. Lại thêm sự trọng đãi của Thánh Tông đối với người Tống thì rất có thể Vy được giữ chức thiếu sư hoặc thiếu bảo tại triều Trần.
- Trần thượng thư thi đậu khoa Mẫu Tuất nên hẳn là giỏi chữ nghĩa, không rõ con trai là Trần Văn Tôn thế nào ? Nhưng rõ ràng là có sự trùng họ tên giữ con trai của Trần thượng thư và sơn trưởng của viện Lạn Kha. Xin bàn rõ hơn trong bài sau. 
3.2 Chiêu Đạo vương Quang Xưởng
Toàn thư chép: “Tân Sửu [1241] Hoàng tử thứ ba Quang Khải sinh, là em cùng mẹ với thái tử Hoảng. Quốc Khang là anh trưởng, sau đều phong đại vương. Thứ đến Nhật Vĩnh, Ích Tắc, Chiêu Văn đều phong vương. Thứ nữa thì phong thượng vị hầu. Con trưởng của các vương thì phong vương, các con thứ thì phong thượng vị hầu, coi đó là chế độ lâu dài (...) Nhâm Thìn [1292] Chiêu Đạo Vương trước tên là Quang Xưởng, là con thứ của Thái Tông, anh cùng mẹ của Ích Tắc”.
- Dựa vào Toàn thư, An Nam chí lược, Bạch Hạc chuông thì Quốc Khang là con thứ 1, Uy Hoảng là con thứ 2, Quang Khải là con thứ 3, Ích Tắc là con thứ 5, Nhật Duật là con thứ 6. Vậy người con thứ 4 của Thái Tông Trần Cảnh là ai ?
- Theo Toàn thư mục năm 1292 thì Quang Xưởng là anh cùng mẹ với Ích Tắc, như thế Xưởng phải là con thứ 4 của Thái Tông. Nhưng theo Toàn thư mục năm 1241 thì Ích Tắc được xếp trước, Chiêu Văn được xếp sau và cả 2 đều sau Nhật Vĩnh như thế nên hiểu Nhật Vĩnh là anh của Chiêu Quốc và Nhật Duật.
- Thấy rằng Nhật Vĩnh có nghĩa là Ngày Lâu Dài, trong khi Xưởng có nghĩa là Ngày Dài. Xem thêm chữ Hán thì thấy Xưởng [] là do Vĩnh [] ghép với Nhật [] do đó tôi cho rằng Chiêu Đạo vương còn có tên khác là Nhật Vĩnh.
3.3 An Tư công chúa
Toàn thư chép: “Tháng 2 ngày giáp thìn mồng 1, con thứ của Tĩnh Quốc Đại Vương Quốc Khang là thượng vị Chương Hiến hầu [Trần] Kiện và liêu thuộc là bọn Lê Trắc đem cả quân đầu hàng quân Nguyên (…) Sai người đưa công chúa An Tư (em gái út [quý muội] của Thánh Tông) đến cho Thoát Hoan, là muốn làm thư giãn loạn nước vậy (...) Bảo Nghĩa Vương Trần Bình Trọng (Vương là dòng dõi Lê Đại Hành, chồng sau của công chúa Thuỵ Bảo, ông cha làm quan đời Thái Tông, được ban quốc tính) đánh nhau với giặc ở bãi Đà Mạc, nay là bãi Mạn Trù) bị chết”.
Việt sử tiêu án chép: “Vua sai đưa Thiên Tư công chúa cho chúng, để thư nạn cho nước”
An Nam chí lược chép: “Ngày kỷ dậu mồng 6, Giảo Kỳ sai Chương Hiến hầu đánh phá quân của người em Thế tử là thái sư Trần Khải tại bến đò Phú Tân (…) Vua Trần sợ, sai người trong họ là Trung Hiến hầu Trần Dương xin hòa. Lại sai kẻ cận thị là Đào Kiên đưa bà chúa em vua [quốc muội] cho Trấn Nam vương xin hòa giải”.
An Nam chí lược chép: “Trần Tú Viên cháu gọi An Nam quốc vương bằng bác, con của Vũ Đạo hầu (…) Mùa xuân năm sau [1285] Tú Viên khuyên cha mẹ quy thuận (…) Năm sau [1288] Trở về Hán Dương, Trấn Nam vương lấy em gái [muội trần thị] làm thứ phi, sinh được 2 con”.
Trần Tú Viên thần đạo bi viết: “Trấn Nam vương đem đại quân tiến vào biên giới (…) Con em của ông [Tú Viến] bèn trình với Vũ Đạo rằng nhà Nguyên đang hưng thịnh, vạn quốc thần phục, nhà ta không sợ mệnh trời mà chống cự, thật là việc làm nghiêng đổ tông miếu, tàn hại sinh dân, ai là người sẽ chuyển họa thành phúc, ôm đồ tế khí mà bảo tồn miếu thờ tổ tiên, Vũ Đạo nghe theo, bèn xin hàng, dâng người con gái họ Lý [Lý nữ] cho vương, sau bà này sinh ra vương tông”.
- Theo như Toàn thư thì Thánh Tông sai đưa người em gái út là nàng An Tư tới cho Thoát Hoan, An Nam chí lược không chép rõ tên của nàng nhưng chép rõ là Quốc muội, như thế nàng An Tư đúng là em gái út ruột của Trần Hoảng. Thái Tông Trần Cảnh mất năm 1277, lại thêm việc dâng người để thư nạn nước thì hẳn nàng An Tư phải còn trẻ và chưa có chồng. Sử gia Ngô Thì Sĩ chép nàng công chúa mà Thánh Tông sai người đưa đến cho Trấn Nam vương là Thiên Tư.
- Theo mộ bia của Tú Viên thì sau khi Thánh Tông thua ở sông Đại Hoàng, Vũ Đạo hầu ra hàng và dâng người con gái họ Lí, người con gái này sau lấy Thoát Hoan sinh 2 người con. An Nam chí lược chép sau khi thua trận, Trấn Nam vương trở về Hán Dương lấy em gái họ Trần của Tú Viên cũng sinh các vương tông. Toàn thư cho biết thêm từ năm 1232 trở đi người dân không được phép sử dụng chữ Lý. Nên tôi cho rằng người con gái làm thứ phí của Trấn Nam vương vốn mang họ Lý nhưng là em (bên ngoại) của Tú Viên nên đổi sang mang họ Trần.
3.4 Trung Vũ vương Trần Thủ Độ
Toàn thư chép: “Nhâm Thìn [1232] Tháng 8, gió lớn dân gian phát dịch lệ, nhiều người chết. Trần Thủ Độ giết hết tôn thất nhà Lý. Khi ấy, Thủ Độ chuyên chính lâu ngày, đã giết Huệ Tông, tôn thất nhà Lý đều bùi ngùi thất vọng. Mùa đông năm ấy, nhân người họ Lý làm lễ tế các vua Lý ở Thái Đường, Hoa Lâm, Thủ Độ ngầm đào hố sâu, làm nhà lên trên, đợi khi mọi người uống rượu say, giật máy chôn sống hết. Xét thời Trần Anh Tông còn có người họ Lý làm tướng, hơn nữa [Phan] Phu Tiên không ghi lại, việc này chưa chắc đã có thực, hãy tạm chép vào đây”.
Sách Long Hưng. Đất phát nghiệp vương triều Trần của tác giả Đặng Hùng viết: “Có thể không có việc Trần Thủ Độ giết hết tôn thất nhà Lý, nhưng chắc chắn là có một số tôn thất (con cháu nhà Lý) đã chống lại Trần Thủ Độ và Vương triều Trần, nên bị Trần Thủ Độ tấn công và sát hại. Đó là trường hợp của Thiềm Hoa công chúa (…) Theo ông Nguyễn Văn Huyên trong bài Dấu tích Trần Thủ Độ trên đất Nam Hà. Căn cứ vào ba bản sắc phong thời Khải Định [1916-1925] ở đình Cả, thôn Thành Thị, xã Vụ Bản thì nơi đây trước là đất của vợ chồng công chúa Thiềm Hoa, được vua Lý cấp thái ấp cho. Thiềm Hoa công chúa đã cùng chồng là An Quốc đại vương chống lại Trần Thủ Độ”.
- Trước hết là lời bàn trong Toàn thư. Qua lời bàn, chúng ta biết rằng Phan Phu Tiên không chép lại sự việc Trần Thủ Độ giết hết tôn thất nhà Lý. Nhưng rất có thể Phu Tiên bỏ sót hoặc không biết, tôi nghiêng về bỏ sót hơn, chứ việc lớn như vậy, thật khó để không biết lắm. Thế nhưng bỏ sót, thì xem ra cũng chưa ổn, vì bản thân Ngô sử gia biết thông tin Thủ Độ giết hết tôn thất nhà Lý nhưng Sĩ Liên cũng chỉ dám chép "chưa chắc đã có thực, tạm chép vào đây". Tức là bản thân Ngô sử gia cũng đặt nghi ngờ về nguồn cung cấp thông tin, Sĩ Liên biết được thông tin, nhưng lại nghi ngờ thông tin, không biết đúng sai ra sao, nên cứ tạm ghi lại để kiểm chứng sau.
- Sự nghi ngờ của Ngô sử gia không phải không có căn cứ, khi ông biết rõ rằng "thời Trần Anh Tông còn có người họ Lý làm tướng". Và chính Toàn thư mục năm 1268 chép: "ngoại thích là Lý Cát phạm tội ngồi vào ngai vua ở điện Thiên An. Khi xét hỏi trị tội thấy hắn có chứng điên, bèn đánh trượng rồi tha". Trần Thủ Độ mất năm 1264, mà năm 1268 vẫn còn người họ Lý, thậm chí người này còn là ngoại thích [họ hàng bên vợ] của nhà Trần. Xem hành động "ngồi vào ngai vua" thì có vẻ như Cát là tôn thất của nhà Lý, vì tiếc nuối ngôi báu mà đã có hành động khá "lộ liễu" nhưng có lẽ vì là ngoại thích nên triều Trần niệm tình nên tha bằng cách bày cho trò "chứng điên" do đó chỉ bị đánh đòn.
- Mục Tự sự trong An Nam chí lược của Lê Tắc chép rằng "lúc đầu bản-quốc (An-nam) loạn lạc, cha mẹ, gia quyến ly tán, Tắc vào Trung-Châu, mười năm sau cưới tôn-nữ họ Lý, con quốc-vương trước, làm vợ. Lý tôn-nữ theo cha nuôi là Chương-Hoài-Hầu Trần-Tuyên-Uỷ hàng phụ Trung-Quốc". Trần Tuyên Ủy ở đây là tên khác của Trần Văn Lộng, mà cái thú vị nhất là theo mục Các vương hầu nội phụ trong An Nam chí lược thì "Trần Văn Lộng. Con của Nhân-Thành-Hầu, Trần-Duyệt, cháu nội của quốc-thúc thái-sư Trần-Thủ-Độ". Đúng là rất thú vị phải không ? Cháu nội của Trần Thủ Độ có một người con nuôi họ Lý và người con nuôi này là tôn nữ của Quốc vương trước. Vị quốc vương đó là ai thì tạm chưa bàn, nhưng chắc chắn vị này phải mang họ Lý thì tôn nữ mới mang họ Lý. Trần Văn Lộng nhận người con gái này làm con nuôi thì xem ra mối quan hệ giữa dòng dõi Trần Thủ Độ có mối quan hệ khá tốt với tôn thất họ Lý.
- Cuối cùng là qua Trần Tú Viên thần bi đạo, chúng ta biết rằng, cháu của Trung Vũ vương là Vũ Đạo hầu cũng có mối quan hệ rất tốt với người họ Lý, bằng chứng là ngài Vũ Đạo hầu đã dâng người con gái họ Lý cho Trần Nam vương. Rõ ràng là người họ Lý mà rất có thể là tôn thất vẫn còn sau khi Trung Vũ vương chết năm 1264.

VIỆT CHIÊM TRƯỜNG TRẬN TÂN BIÊN (2)



1. Tống sử chép: “Năm Thái Bình Hưng Quốc thứ 5 [980] Đông năm ấy, Lê Hoàn sai Nha hiệu Giang Cự Hoàng đem phương vật tới cống, vẫn lấy tên Đinh Toàn dâng biểu (…) Hoàng thượng xét thấy chúng muốn trì hoãn vương sư, bèn bỏ đi không phúc đáp. Vương sư tiến đánh, phá được hơn vạn quân chúng, chém hơn hai ngàn thủ cấp. Mùa xuân năm thứ 6 [981] lại phá quân giặc ở cửa sông Bạch Đằng, chém hơn ngàn thủ cấp (…) Năm thứ 6, Lê Hoàn ở Giao Châu tấu, muốn đem chín mươi ba người tù binh Chiêm Thành sang dâng lên kinh sư” [Bản dịch của Châu Hải Đường]
Tống sử chép: “Năm thứ 5 [980] Tháng 11, An Nam Tính hải quân tiết độ hành quân ti mã, quyền tri châu sự Đinh Tuyền dâng biểu xin kế vị, không trả lời (…) Tháng 12, đánh giặc ở Giao Chỉ, đại thắng (…) Năm thứ 6 [981] Tháng 3, phá giặc Giao Châu tại cửa sông Bạch Đằng, bắt hai trăm chiến thuyền, tri Ung Châu là Hầu Nhân Bảo chết”.
-- Sau cái chết của Nam Việt vương, Đinh Tuyền kế tập, tuy nhiên Vệ vương còn nhỏ nên quyền hành do Lê Hoàn nắm giữ. Nhà Tống biết tin, liền thông mưu với Chiêm Thành có ý đánh Giao Chỉ. Vào tháng 11/980 Lê Hoàn có dâng biểu lên triều đình nhưng không hề nhắc tới tù binh Chiêm Thành, trong khi Tống sử chép năm 981 Giao Chỉ có dâng tấu muốn đem 93 người tù binh Chiêm Thành dâng lên kinh sư. Như thế rất có thể là người Chàm tiến quân vào năm 981, đã hẹn thời gian với nhà Tống cùng tấn công Giao Chỉ, nhưng vì lý do nào đó mà không đến đúng hẹn, nên chỉ có nhà Tống tiến đánh Giao Chỉ, chiến sự kéo dài từ tháng 12/980 đến tháng 3/981.
Toàn thư chép: “Kỷ Mão [979] Phò mã Ngô Nhật Khánh dẫn thuyền quân Chiêm Thành hơn nghìn chiếc vào cướp, muốn đánh thành Hoa Lư, theo hai cửa biển Đại Ác và Tiểu Khang, qua một đêm, gặp gió bão nổi lên, thuyền đều lật đắm, Nhật Khánh cùng bọn người Chiêm đều chết đuối, chỉ có thuyền của vua Chiêm thoát trở về nước. Nhật Khánh là con cháu của Ngô Tiên chúa Quyền, trước xưng là An Vương, cùng 12 sứ quân mỗi người chiếm giữ một vùng. Tiên Hoàng dẹp yên, lấy mẹ Khánh làm hoàng hậu, lấy em gái Khánh làm vợ Nam Việt Vương Liễn, còn lo sinh biến, lại đem công chúa gã cho Khánh, ý muốn dập hết lòng oán vọng của hắn. Nhật Khánh bề ngoài cười nói như không, nhưng trong lòng vẫn bất bình, bèn đem cả vợ chạy sang Chiêm Thành, đến cửa biển Nam Giới rút đao ngắn xẻo má vợ kể tội rằng: “Cha mày lừa dối ức hiếp mẹ con ta, lẽ nào ta vì mày mà quên tội ác của cha mày hay sao? Cho mày trở về, ta đi đằng khác tìm kẻ có thể cứu ta”. Nói xong bèn đi. Đến đây nghe tin Tiên Hoàng băng, Khánh dẫn người Chiêm vào cướp”.
Toàn thư chép: “Bính Dần [966] Nam Tấn vương mất, các hùng trưởng đua nhau nổi dậy chiếm cứ quận ấp để tự giữ. Ngô Xương Xí chiếm Binh Kiều; Kiểu Công Hãn (xưng là Kiểu Tam Chế) chiếm Phong Châu (nay là huyện Bạch Hạc); Nguyễn Khoan (xưng là Nguyễn Thái Bình) chiếm Tam Đái; Ngô Nhật Khánh (xưng là Ngô Lãm Công) chiếm Đường Lâm (có sách chép là chiếm Giao Thủy); Đỗ Cảnh Thạc (xưng là Đỗ Cảnh Công) chiếm Đỗ Động Giang; Lý Khuê (xưng là Lý Lãng Công) chiếm Siêu Loại; Nguyễn Thủ Tiệp (xưng là Nguyễn Lệnh Công) chiếm Tiên Du; Lữ Đường (xưng là Lữ Tá Công) chiếm Tế Giang; Nguyễn Siêu (xưng là Nguyễn Hữu Công) chiếm Tây Phù Liệt; Kiểu Thuận (xưng là Kiểu Lệnh Công) chiếm Hồi Hồ (nay ở xã Trần Xá huyện Hoa Khê vẫn còn nền thành cũ); Phạm Bạch Hổ (xưng là Phạm Phòng Át) chiếm Đằng Châu; Trần Lãm (xưng là Trần Minh Công) chiếm Bố Hải Khẩu; gọi là 12 sứ quân”.
Việt sử lược chép: “Kiểu Tam Chế tên là Công Hãn chiếm giữ Phong Châu. Nguyễn Thái Bình tên Khoan, một tên nữa là Ký, chiếm giữ Nguyễn Gia. Trần Công Lãm tên là Nhật Khánh chiếm giữ Đường Lâm. Đỗ Cảnh Công tên là Cảnh Thạc, chiếm giữ Đỗ Động. Nguyễn Du Dịch tên là Xương Xí chiếm giữ Vương Cảo. Nguyễn Lãng Công tên Khuê chiến, giữ Siêu. Nguyễn Lịnh Công tên là Thủ Tiệp chiếm giữ Tiên Du. Lữ Tả Công tên là Quánh chiếm giữ Tế Giang. Nguyễn Hữu Công tên là Siêu, chiếm giữ Phù Liệt. Kiểu Lệnh Công tên là Thuận giữ Hồi Hồ. Phạm Phòng Át tên là Bạch Hổ chiếm giữ Đằng Châu. Trần Minh Công tên Lãm chiếm giữ Giang Bố Khẩu”.
Tống sử chép: “Năm Thái Bình Hưng Quốc thứ hai [977] Quốc vương Ba Mỹ Thuế Dương Bố Ấn Trà sai sứ là Lý Bài sang cống (…) Năm Ung Hy thứ hai [985] Quốc vương Thi Lợi Đà Bàn Ngô Nhật Hoan sai Bà la môn Kim Ca Ma dâng phương vật và tố Giao Chỉ xâm đoạt, chiếu đáp mệnh cho giữ nước và hòa mục với lân bang”.
-- Có sự sai khác giữa Việt sử lược và Toàn thư trong họ tên 2 vị sứ quân là Xương Xí và Nhật Khánh. Toàn thư chép 2 vị sứ quân cùng mang họ Ngô, hơn thế nữa Xương Xí còn là con của Thiên Sách vương và Nhật Khánh là con cháu của Ngô Quyền. Trong khi Việt sử lược chép Xương Xí họ Nguyễn, còn Nhật Khánh họ Trần. Ngoài ra Toàn thư còn chép việc Nhật Khánh nhân Đinh Liễn bị chết mà dẫn người Chiêm vào cướp trong khi Việt sử lược không chép.
-- Theo Toàn thư thì sau khi Nam Tấn vương chết, Giao Chỉ xảy ra loạn sứ quân, Đinh Bộ Lĩnh dẹp yên vào năm 967. So với các sứ quân khác thì Đại Thắng vương đối với Nhật Khánh rất tốt, trước là lấy mẹ của Công Lãm, thứ đến cưới em gái của sứ quân cho con trai, sau là gả con gái cho Khánh. Vậy mà Công Lãm vẫn cho là Bộ Lĩnh ức hiếp mẹ con sứ quân nên đã tìm cách bỏ trốn ?
-- Tôi cho rằng Ngô sử gia trong khi soạn Toàn thư đã thu lượm thông tin từ dân gian về Ngô Nhật Khánh. Vốn vị sứ quân giữ Đường Lâm là Trần Nhật Khánh, nhưng vị sứ quân này bị dân gian hóa thành Ngô Nhật Khánh bởi tác động từ vị quốc vương Chiêm Thành là Ngô Nhật Hoan. Vào năm 981 quốc vương Chiêm Thành là Ba Mỹ Thuế Dương Bố Ấn Trà cùng bộ tướng là Thi Lợi Đà Bàn Ngô Nhật Hoan tấn công Giao Chỉ, tuy nhiên đoàn thủy chiến của Chiêm Thành gặp bão nên bị lật chìm tại cửa biển Đại Ác và Tiểu Khang, nhưng quốc vương Chiêm Thành và Ngô Nhật Hoan thoát chết. Những thông tin về Ngô Nhật Hoan được dân gian lưu truyền, theo thời gian những thông tin xâm nhập vào sứ quân Trần Nhật Khánh, cho đến khi Ngô sử gia soạn Toàn thư thì Nhật Khánh đã trở thành người họ Ngô.
Sách Vương quốc Champa địa dư dân cư và lịch sử của tác giả Pièrre-Bernard Lafont viết: “Các bia ký thường đề cập đến sự ra đời của một triều đại mới của Champa đặt thủ đô tại Indrapura. Sáng lập viên của vương triều Indrapura là vua Indravarman II (…) Vua Lê Đại Hành (…) cử một đoàn binh sang đánh phá Champa, giết chết vua Paramesvaravarman I (…) Vị vua Champa kế thừa tên là Indravarman IV vì không kháng cử nổi (…) phải bỏ chạy về miền nam lánh nạn, trong lúc đó đối phương tha hồ đốt phá thủ đô Indrapura của Champa”.
-- Sau khi nắm quyền, phá Tống, uy tín của Lê Hoàn trùm Giao Chỉ, các thế lực tại địa phương phải quy thuận. Tháng 5/983, Giao Chỉ tấu người Chiêm đến cướp, Lê Hoàn đánh tan được. Nhân sự kiện đó, năm 984 Đại Hành đem quân nam tiến, chém quốc vương Chiêm Thành là Ba Mỹ Thuế, đốt phá kinh sư của Champa đặt tại Indrapura [Bình Trị Thiên] Bộ tướng Ngô Nhật Hoan rút chạy về phía nam đèo Hải Vân, được tôn làm quốc vương.
-- Khu vực Bình Trị Thiên gồm đa dân tộc, phía bắc có người Việt sinh sống, trước khi rút quân, Lê Hoàn đã dựng chính quyền Lưu Kế Tông, bằng chứng là theo Tống sử năm 986, Kế Tông có sai sứ sang phương bắc cống nhưng không đề cập gì tới việc Giao Chỉ áp bức người Chiêm và liền 2 năm sau đó, những thủ lĩnh người Champa liên tục xin tị nạn nhà Tống và tố cáo Giao Chỉ áp bức.
-- Theo Tống sử thì năm 985 Ngô Nhật Hoàn có sai sứ sang phương bắc cống sản vật, đồng thời tố Giao Chỉ áp bức, tuy nhiên những năm 987, 988 nhiều người Chiêm xin tị nạn nhưng lại không thấy quốc vương Champa sai sứ tố Giao Chỉ nên xung đột giữa Lưu Kế Tông và Ngô Nhật Hoan kết thúc trước khi Kế Tông sai sứ sang Tống.
Tống sử chép: “Năm Thuần Hóa nguyên niên [990] vua mới là Dương Đà Bài tự xưng là mới chiếm giữ nước Phật Thệ. Dương Đà Bài sai sứ là Lý Trăn sang cống tê giác đã thuần và phương vật cùng dâng biểu tố rằng bị Giao Châu đánh, nhân dân và của cải trong nước đều bị cướp đi. (Hoàng thượng) ban chiếu cho Lê Hoàn, lệnh cho ai nấy cùng giữ yên bờ cõi”.
Toàn thư chép: “Kỷ Sửu [989] Phong (…) hoàng tử thứ hai là Ngân Tích làm Đông Thành Vương (...) Dương Tiến Lộc lấy hai châu Hoan, Ái làm phản. Vua thân đi đánh, Tiến Lộc bị giết. Bấy giờ vua sai viên Quảng giáp là Tiến Lộc đi thu thuế hai châu Hoan và Ái, Tiến Lộc đem người hai châu ấy xin theo về với Chiêm Thành. Chiêm Thành không nhận. Vua nghe tin, đem các quân đến đánh Châu Hoan, Châu Ái, đuổi bắt được Tiến Lộc và giết người hai châu ấy không biết bao nhiêu mà kể”.
-- Chính quyền Lưu Kế Tông quản giữ vùng Bình Trị Thiên, đến năm 989 Dương Tiến Lộc đem người 2 châu Hoan Ái liên kết với thủ lĩnh của người Chiêm là Dương Đà Bài tổ chức đảo chính, giành quyền kiểm soát. Lê Hoàn biết tin, đem quân tấn công liên minh quân sự, chém Tiến Lộc, buộc Dương Đà Bài rút về phía nam và tại thành Phật Thệ [Bình Định] người Chàm tôn Dương Đà Bài lên làm vua, Chiêm Thành quốc vương liền sai sứ sang phương bắc cống phương vật, đồng thời tố bị Giao Chỉ đánh. Vua Tống sai sứ sang Giao Chỉ phong chức cho Lê Hoàn nhằm mục đích vỗ về, đồng thời lệch cho Việt Chiêm giữ yên bờ cõi không xâm phạm.
-- Khi sứ phương bắc trở về vào năm 991 có tấu việc Lê Hoàn nói năm gần đây giao chiến với giặc nam, bị ngã ngựa gãy chân nên nhận chiếu không bái lạy. Tuy việc gãy chân chỉ là cơ nhưng việc giao chiến với giặc man có thể là thật. Trên tảng đá có khắc chữ tìm thấy ở Mỹ Sơn cho biết năm 991 nằm trong thời gian trị vì của vua Vijaya-Srĩ Harivarmandeva. Thông tin này cho phép chúng ta suy đoán, thủ đô của Champa được rời về thành Phật Thệ, người Chiêm kiểm soát tới châu Ô, trong khi đó 3 châu phía bắc của vùng Bình Trị Thiên là Bố Chính, Mi Linh, Địa Lý do Đại Việt kiểm soát, bằng chứng là năm 992 Toàn thư có chép 2 sự kiện gồm: một là vào tháng 6 cho Chiêm Thành nhận lĩnh hơn 360 người ở thành cũ châu Địa Lý đem về châu Ô Lý và hai là vào tháng 8 sai phụ quốc Ngô Tử An đem 3 vạn người đi mở đường bộ từ cửa biển Nam Giới đến Châu Địa Lý.
-- Về cơ bản quan hệ Việt Chiêm đã ổn định vào năm 992, một sự kiện không thể khác xảy ra một năm sau đó là vào năm 993 nhà Tống chính thức phong cho Lê Hoàn làm Giao Chỉ quận vương, đây cũng là năm mà Lê Hoàn chính thức xưng là Đại Thánh Minh hoàng đế tại phương nam. Quốc vương Chiêm Thành biết việc nên sai Chế Đông sang dâng sản vật địa phương, có lẽ để chúc mừng Hoa Lư, Lê Hoàn cho rằng việc đó trái lễ nên không nhận nên quốc vương Champa đã sai cháu là Chế Cai sang chầu vào năm 994 như Toàn thư chép, từ đây mối quan hệ lệ thuộc, được xác lập như gợi ý bởi lời sứ của Chiêm Thành là Bố Lộc Da Địa Gia tấu lên triều đình phương bắc vào năm 1007 được Tống sử chép lại.
-- Tình hình Chiêm Thành khá ổn định như lời trong biểu tấu của quốc vương năm 995, cũng nhân lần sứ đó Dương Đà Bài muốn xin lưu dân Chàm tại Quảng Châu được trở về. Trong khi tại Đại Việt, với việc lên ngôi hoàng đế và nhận được sự ôn hòa từ phía phương bắc, Lê Hoàn tiến hành quản lý vùng lãnh thổ sát sao hơn thông qua việc phong ấp cho các con, tất nhiên việc đó dẫn tới mẫu thuẫn giữa chính quyền Hoa Lư với các vùng đất xung quanh do các hào trưởng nắm giữ, nên Đại Thánh Minh hoàng đế đã phải mất rất nhiều năm để tiến hành các hoạt động quân sự nhằm kiểm soát Đại Việt.
Tống sử chép: “Năm Cảnh Đức nguyên niên [1004] (Hoàn) lại sai con trai là nhiếp Hoan Châu thứ sử Minh Đề sang cống, khẩn cầu gia ân sai sứ đến bản đạo ủy lạo cõi xa xôi. Hoàng đế bằng lòng, vẫn lấy Minh Đề làm thứ sử Hoan Châu”.
Toàn thư chép: “Giáp Thìn [1004] Sai Hành Quân Vương Minh Đề, xưng là nhiếp Hoan Châu thứ sử, sang thăm nước Tống. Minh Đề đến Biện Kinh khẩn cầu ân mệnh cho tuyên phủ đất xa”.
-- Vị hoàng tử phương nam sang phương bắc cống nạp là trường hợp rất hiếm, nên sự kiện Minh Đề sang Tống năm 1004 mang tính chất đặc biệt. Minh Đề lấy danh nghĩa là người tạm thay chức thứ sử Hoan Châu sang cống và được triều đình phong chính thức cho làm thứ sử Hoan Châu. Như thú vị là hoàng tử khẩn xin triều đình cho phép được phủ yên những vùng đất xa xôi. Với chức thứ sử Hoan Châu thì vùng đất xa xôi có thể hiểu là nằm ở phía nam và tây. Nên trong lần đi sứ của Minh Đề, ẩn mưu đồ của Giao Châu muốn được xin lệnh từ phương bắc, mà có thể diễn giải lệnh đó thành, được phép can thiệp chính thức vào Chiêm Thành khi cần thiết.
-- Có lẽ sau những rắc rối xảy ra tại biên giới Việt Tống, Lê Hoàn cảm thấy khó mở rộng ảnh hưởng về phía bắc nên đã tiến hành mở rộng về phía nam, mà cụ thể như Toàn thư chép năm 1003 là vua đi Hoan Châu, vét kinh Đa Cái thẳng đến Tư Củng trường ở Ám Châu. Công việc mở rộng ảnh hưởng về phía nam của Lê Đại Hành được người con trai của ngài là Ngọa triều hoàng đế Lê Long Đĩnh kế tục mà Toàn thư có chép tại mục năm 1009 là vua thân đi đánh các châu Hoan Đường, Thạch Hà. Đến Hoàn Giang, sai phòng át sứ là Hồ Thủ Ích đem hơn 5 nghìn quân của châu Hoan Đường, sửa chữa đường từ sông Châu Giáp đến cửa biển Nam Giới để quân đi cho tiện. Thuyền rồng rời cửa Hoàn ra ngoài biển, chợt gió to sóng lớn, mây mưa tối sầm, bèn sai quay thuyền trở lại. Sau đó sợ đường biển khó khăn nguy hiểm đi đường bộ về kinh sư.
2. Sau khi Lê Ngọa Triều mất, với sự ủng hộ của Chi hậu Đào Cam Mộc và Thiền sư Vạn Hạnh, Lý Công Uẩn được ngôi, thứ nhất để tránh sức ép từ gia tộc họ Lê tại Hoa Lư, thứ hai để nhận được sự trợ giúp của gia tộc họ Lý tại Đại La, thứ ba với tầm nhìn rộng nên vào năm 1010 Lý Thái Tổ rời đô. Sự chuyển ngôi từ họ Lê sang họ Lý không khỏi khiến các hào trưởng bất tuân, phía nam gồm 2 châu Hoan Ái, phía bắc gồm các tộc người thiểu số. Ứng biến với tình hình, Công Uẩn sử dụng hôn nhân để liên kết với các gia tộc, gồm phía đông với họ Quách, phía tây với họ Lê, phía bắc với họ Thân.
Toàn thư chép: “Tân Hợi [1011] Nước Chiêm Thành dâng sư tử (…) Quý Mùi [1043] Vua hỏi tả hữu rằng: tiên đế mất đi, đến nay đã 16 năm rồi, mà Chiêm Thành chưa từng sai một sứ giả nào sang là cớ gì”.
-- Như thế việc Chiêm Thành dâng sư tử năm 1011 chẳng qua là thăm dò tình hình Đại Việt.
Toàn thư chép: “Canh Tuất [1010] Đổi 10 đạo làm 24 lộ, châu Hoan châu Ái làm trại (…) Tân Hợi [1011] Vua thấy giặc Cử Long ở Ái Châu (…) Nhâm Tý [1012] Vua thân đi đánh Diễn Châu (…) Canh Thân [1020] Mùa đông tháng 12, sai Khai Thiên Vương cùng Đào Thạc Phụ đem quân đánh người Chiêm Thành ở trại Bố Chính, thẳng đến núi Long Tị, chém tướng Bố Linh ( ) tại trận, người Chiêm chết đến quá nửa (...) Ất Sửu [1025] Xuống chiếu lập trại Định Phiên ở địa giới phía nam châu Hoan, cho quân giáp Lý Thai Giai làm chủ (…) Mậu Thìn [1028] (…) Năm thứ 11 [1020] cho làm Nguyên soái đi đánh Chiêm Thành ở trại Bố Chính. Đại quân vượt biển đến núi Long Tị, có rồng vàng hiện ở thuyền ngự chỉ vua đỡ được, đến nơi đánh tan địch bắt tướng đem về”.
Đại Nam nhất thống chí chép: “Núi Long Tị ở cách huyện Minh Chính 5 dặm về phía tây, núi toàn đá, giống hình mũi rồng nên gọi thế, phía nam kề sông Gianh, giữa sông có bãi cũng gọi bãi rồng. Lý Thường Kiệt triều nhà Lý đi đánh Chiêm Thành, quân thẳng đến núi Long Tị”.
Tống sử chép: “Năm thứ tư [1007] Bố Lộc Da Địa Gia nói nước ấy trước vốn lệ thuộc Giao Châu, sau chạy đến Phật Du, cách nơi cũ ở phía bắc 7 trăm dặm (…) Năm Thiên Hi thứ hai [1018] Quốc vương Thi Hải Bài Ma Điệp sai sứ là La Bì Đế Gia (…) sang cống”.
-- Thời gian đầu kiến quốc, Lý Công Uẩn thân đi đánh dẹp. Năm 1020 Lý Phật Mã được phong làm Nguyên soái, dẫn thủy quân đánh người Chiêm tại trại Bố Chính.
-- Khi lên ngôi năm 1010, Lý Thái Tổ đổi 10 đạo làm 24 lộ, hai châu Hoan Ái làm trại, không thấy có sắc liên quan tới 3 châu Bố Chính, Địa Lý, Minh Linh như thế Đại Việt đã mất kiểm soát đối với 3 châu này vào lúc chuyển gia quyền lực giữa họ Lê sang họ Lý.
-- Kế hoạch nam chinh của Đại Việt là dùng thuyền vượt biển, sau đó tiến dần vào sông Gianh, rồi đổ bộ tấn công trại Bố Chính. Phía bắc thuộc châu Bố Chính có sông Ròn cũng có thể làm điểm tập kết, nhưng Thăng Long chọn sông Gianh, có lẽ do trại Bố Chính ở gần đó.
-- Sau trận đánh, năm 1025 Thăng Long lập trại Định Phiên là nơi định cư cho những tù binh người Chăm ở miền nam châu Hoan và cho quân giáp Lý Thai Giai làm chủ. Những năm tháng này không thấy phản ứng của thành Phật Thệ nên rất có thể vào thời điểm chuyển giao quyền lực từ Hoa Lư sang Thăng Long, các thế lực tại Bố Chính đã tự giữ bất tuân, chứ không phải thành Phật Thệ đã kiểm soát lại được vùng đất cố quốc này.
Toàn thư chép: “Bính Tý [1036] Mùa hạ tháng 4, đặt hành dinh ở châu Hoan, nhân đó đổi tên châu ấy là Nghệ An (…) Đinh Sửu [1037] Xuống chiếu cho châu Nghệ An dựng các kho ở trong châu như Tư Thành, Lợi Nhân, Vĩnh Phong tất cả 50 sở (…) Kỷ Mão [1039] Mùa hạ tháng 4, con vua Chiêm Thành là Địa Bà Lạt, Lạc Thuẫn, Sạ Đâu, La Kế, A Thát Lạt 5 người sang quy phục (...) Canh Thìn [1040] Mùa thu tháng 8, người giữ trại Bố Chính của nước Chiêm Thành là Bố Linh [ ] Bố Kha, Lan Đà Tinh đem bộ thuộc hơn trăm người sang quy phụ (...) Tân Tị [1041] Tháng 11, xuống chiếu cho Uy Minh hầu Nhật Quang làm tri châu Nghệ An”.
Việt điện u linh chép: “Vương họ Lý tên Hoảng, con thứ 8 vua Lý Thái Tông, mẹ là Trinh Minh hoàng hậu họ Lê (…) Niên hiệu Kiền Phù Hữu Đạo năm đầu [1039] phụng mệnh thu thuế châu Nghệ An”.
-- Theo như Toàn thư mục năm 1020 Đại Việt chém tướng người Chiêm Thành là Bố Linh, nhưng cũng Toàn thư mục năm 1040 chép người giữ trại Bố Chính là Bố Linh xin quy phụ. Tham khảo ghi chép của Toàn thư mục năm 1028 thì rất có thể mục năm 1020 là chép nhầm, trong lần nam chinh Khai Thiên vương bắt được Bố Linh nhưng sau thả.
-- Nhưng khi đã lấy được Bố Chính thì vì sao Đại Việt không quản lý mà lại lập trại người Phiên ở miền nam châu Hoan và thả Bố Linh ? Ấy là bởi, họ Lý mới dựng, các thế lực chưa thuận, không muốn chia sức mà quản miền xa, vì thế mà tha cho Bố Linh, cốt để kiến tạo một thế lực ngăn trở giữa Phật Thệ và Thăng Long, sâu hơn cũng chính là muốn cắt nguồn trợ giúp các thế lực miền Hoan Diễn.
-- Nguyên văn trong Toàn thư là “Chiêm Thành quốc thủ Bố Chính trại nhân” như thế về mặt danh nghĩa Bố Chính trại thuộc nước Chiêm Thành. Champa là quốc gia liên bang gồm 5 vùng lãnh thổ là: Indrapura, Amaravati, Vijaya, Kauthara, Panduranga.
-- Sự kiện con vua Chiêm Thành là Địa Bà Lạt năm 1039 sang quy phụ cho biết khoảng thời gian này tại Chiêm Thành đã xảy ra sự tranh giành quyền lực, những nhóm người thất bại lựa chọn lưu vong.
-- Vào năm 1037 Thăng Long cho dựng các kho ở Nghệ An, như thế Lý Thái Tông dường như đã biết được tình hình loạn lạc tại Chiêm Thành nên muốn tận dụng cơ hội này. Một đoạn chép trong Tống sử mục năm 1047 cũng cho thấy mưu đồ rất rõ ràng của Thăng Long “Khi xưa Đức Chính phát binh lấy Chiêm Thành, triều đình nghi bên trong việc ấy có mưu gian, bèn hỏi đường xá những chỗ trọng yếu cho quân canh giữ”.
(Trích từ sách Vương Quốc Champa của tác giả Pièrre-Bernard Lafont)
Toàn thư chép: “Nhâm Ngọ [1042] Mùa hạ tháng 5, xuống chiếu rằng các quan chức đô ai bỏ trốn thì phạt 100 trượng, thích vào mặt 50 chữ và xử tội đồ. Các quân sĩ trước bị tội đồ nếu trốn vào núi rừng đồng nội cướp của người thì xử 100 trượng, thích vào mặt 30 chữ. Người con trấn trại mà bỏ trốn cũng phải tội như thế (...) Tháng 9, phạt đánh 50 trượng những người vắng mặt trong buổi hội thề (...) Quý Mùi [1043] Mùa thu tháng 8, xuống chiếu rằng kẻ nào đem bán hoàng nam trong dân gian làm gia nô cho người ta, đã bán rồi thì đánh 100 trượng, thích vào mặt 20 chữ, chưa bán mà đã làm việc cho người thì cũng đáng trượng như thế, thích vào mặt 10 chữ; người nào biết chuyện mà cũng mua thì xử giảm một bậc (...) Tháng 9, vua định sang năm sẽ đi đánh Chiêm Thành, xuống chiếu sai đóng các chiến thuyền hiệu Long, Phượng, Ngư, Xà, Hổ, Báo, Anh Vũ hơn vài trăm chiếc (…) Mùa đông tháng 10, xuống chiếu rằng quân sĩ bỏ trốn quá 1 năm xử 100 trượng, thích vào mặt 50 chữ, chưa đến 1 năm thì xử theo mức tội nhẹ, kẻ nào quay lại thì cho về chỗ cũ. Quân sĩ không theo xa giá cũng xử trượng như thế và thích vào mặt 10 chữ (...) Tháng 12, xuống chiếu cho quân sĩ sửa soạn giáp binh, hẹn đến mùa xuân, tháng 2 sang năm đi đánh Chiêm Thành (…) Năm ấy lại đúc tiền Minh Đạo ban cho các quan văn võ”.
-- Trên là những chỉnh đốn và động viên về mặt quân sự của Thăng Long để chuẩn bị cho cuộc nam chinh.
Toàn thư chép: “Quý Mùi [1043] Mùa hạ tháng 4, giặc gió sóng (nghĩa là nhân gió sóng mà đi cướp) Chiêm Thành cướp bóc dân ven biển. Vua sai Đào Xử Trung đi đánh, dẹp yên được (…) Mùa thu tháng 8, vua hỏi tả hữu rằng: "Tiên đế mất đi, đến nay đã 16 năm rồi, mà Chiêm Thành chưa từng sai một sứ giả nào sang là cớ gì ? Uy đức của trẫm không đến họ chăng ? Hay là họ cậy có núi sông hiểm trở chăng". Các quan đáp: "Bọn thần cho rằng đó là vì đức của bệ hạ tuy có đến, nhưng uy thì chưa rộng. Sao thế ? Vì từ khi bệ hạ lên ngôi đến giờ, họ trái mệnh không đến chầu, bệ hạ chỉ ban ơn để vỗ về, chưa từng ra oai dùng võ để đánh phạt, đó không phải là cách làm cho người ta sợ oai. Bọn thần e rằng các chư hầu khác họ trong nước đều như Chiêm Thành cả, há chỉ riêng người Chiêm mà thôi đâu". Vua từ đấy quyết ý đánh Chiêm Thành”.
Tống sử chép: “Tháng 10 năm Thiên Thánh thứ tám [1030] Chiêm Thành vương là Dương Bổ Cô Thi Bì Lan Đức Gia Bạt Ma Điệp sai sứ là Lý Bồ Tát Ma Hà Đà Bà sang cống (…) Tháng 9 năm Khánh Lịch nguyên niên [1041] thương nhân Quảng Đông là Thiệu Bảo thấy quân tặc Ngạc Lân hơn trăm người ở Chiêm Thành, chuyển vận ty chọn hai viên sứ thần đem chiếu thư cùng tiền bạc khí vật tặng cho Chiêm Thành, trả giá đem Lân đến cửa khuyết, còn bọn dư đảng thì sai giết hết. Tháng 11 năm sau [1042] vua nước ấy là Hình Bốc Thi Li Trị Tinh Hà Phất sai sứ sang dâng 3 con voi nhà” [Bản dịch của dịch giả Châu Hải Đường]
Ghi chú số 2 viết: “Tục tư trị thông giám – quyển 42 chép: Ngạc Lân là quân sĩ ở Triết Đông, tháng 11 năm Khang Định nguyên niên [1040] giết tuần kiểm sứ Trương Hoài Tín, tụ tập quân lính cướp bóc vùng Hồ Nam, Phúc Kiến, Quảng Nam rồi trốn ra biển”.
-- Trên là lý do chính thức được Thăng Long đưa ra cho cuộc nam phạt, song nếu cứ vào ân uy thì vị tân quốc vương của Chiêm Thành chưa được tỏ cái ân của Thái Tông triều Lý, nói đến cái ân của 16 năm phần nhiều vị quốc vương tiền nhiềm hưởng.
-- Sự kiện mùa hạ năm 1043 Chiêm Thành cướp dân vùng biển Đại Việt cho thấy thành Phật Thệ đã kiểm soát được vùng Bố Chính, do đó cho phép chúng ta đặt giả định: trước áp bức từ Phật Thệ nên năm 1040 người tự giữ trại Bố Chính là Bố Linh phải lánh sang Đại Việt.
Toàn thư chép: “Kỷ Mão [1039] Mùa thu tháng 8, sai Đại liêu ban Sư Dụng Hòa và Thân vương ban Đỗ Hưng sang nước Tống tiếp tục việc thông hiếu cũ (…) Nhâm Ngọ [1042] Sai Viên ngoại lang Đỗ Khánh và Lương Mậu Tài đem voi thuần sang biếu nhà Tống để tiếp tục sự thông hiếu cũ”.
-- Thăng Long cử sứ sang phương bắc vào năm 1042, Tống sử cho biết năm 1043 thì sứ vào triều, có lẽ ngoài hoạt động mang tính ngoại giao thuần túy truyền thống, chuyến đi sứ của Đỗ Khánh và Lương Mậu Tài còn mục thăm dò mức độ thu thập thông tin của Đại Tống về tình hình phương nam.
Toàn thư chép: “Giáp Thân [1044] Mùa xuân tháng giêng, phát khí giới trong kho ban cho các quân. Ngày quý mão vua thân đi đánh Chiêm Thành, cho Khai Hoàng Vương làm Lưu thủ kinh sư (…) Ngày giáp thìn quân đi từ kinh sư, ngày Ất Tị đến cửa biển Đại Ác, gặp lúc sóng gió yên lặng, đại quân qua biển dễ dàng cho nên đổi tên Đại Ác làm Đại An. Đến núi Ma Cô có đám mây tía bọc lấy mặt trời. Qua vụng Hà Não có đám mây che thuyền ngự, theo thuyền mà đi hoặc ngừng. Ngày hôm ấy đến đóng doanh ở cửa biển Trụ Nha. Ngày hôm sau đi, nhờ thuận gió trong một ngày qua hai bãi Đại Tiểu Trường Sa. Đến cửa biển Tư Khách có con cá trắng nhảy vào thuyền. Vua nghe tin Chiêm Thành đem quân và voi bày trận ở bờ nam sông Ngũ Bồ muốn chống cự quan quân. Vua truyền cho quân bỏ thuyền lên bộ, đem quân sĩ lên bờ bắc, thấy quân Chiêm đã dàn ở bên sông. Vua mới cắt đặt quân sĩ dựng cờ nổi trống, sang tắt ngang sông đánh. Binh lính chưa chạm mà quân Chiêm đã tan vỡ, quan quân đuổi chém được 3 vạn thủ cấp. Quách Gia Di chém được đầu vua Chiêm là Sạ Đẩu tại trận đem dâng. Đoạt được hơn 30 voi thuần, bắt sống hơn 5 nghìn người, còn thì bị quan quân giết chết, máu nhuộm gươm giá, xác chất đầy đồng (...) Mùa thu tháng 7, vua đem quân vào thành Phật Thệ bắt vợ cả, vợ lẽ của Sạ Đẩu và các cung nữ giỏi hát múa khúc điệu Tây Thiên. Sai sứ đi khắp các hương ấp phủ dụ dân chúng. Các quan chúc mừng thắng lợi (...) Tháng 8, đem quân về. Đến hành dinh Nghệ An, gọi Uy Minh hầu Nhật Quang đến úy lạo rồi trao cho tiết việt trấn thủ châu ấy, gia phong tước vương (...) Tháng 9 ngày mồng 1, đến phủ Trường Yên, có rồng vàng hiện ở thuyền ngự (…) vua từ Chiêm Thành về làm lễ cáo thắng trận ở miếu Thái Tổ, xong về ngự ở điện Thiên An mở tiệc rượu làm lễ mừng (…) bầy tôi dâng tù binh hơn 5 nghìn tên và các thứ vàng bạc châu báu”.
Sách Đất nước Việt Nam qua các đời của tác giả Đào Duy Anh viết: “Nhất thống chí (Thừa Thiên) chép rằng cửa Tư Hiền ở phía đông bắc huyện Phú Lộc, đời Lý tên là cửa Ô Long, đời Trần đổi làm Tư Dung, đời Mạc đổi làm Tư Khách, đời Lê lại đổi làm Tư Dung, lại có tên là cửa Ông, lại một tên nữa là cửa Biện. Về sông Ngũ Bồ thì Cương mục chú là không rõ ở đâu, nhưng lấy địa thế mà xét, vua Chiêm từ Phật Thệ ra cự chiến, dàn binh ở phía nam một con sông thì con sông ấy phải là một con sông lớn ở miền Quảng Nam, có thể là sông Chợ Củi chảy ra cửa Đại Chiêm”.
-- Toàn thư mục năm 1044 chép ngày giáp thìn của tháng giêng quân xuất phát từ kinh sư, trong khi Việt sử lược mục năm 1044 chép ngày giáp thân của tháng 2 vua xuất quân từ kinh sư. Dựa vào ngày ất tị, tác giả Trần Quốc Vượng trong bản dịch cho rằng Việt sử lược chép ngày giáp thân là nhầm. Toàn thư mục năm 1043 chép rằng: tháng 12 xuống chiếu cho quân sĩ sửa soạn giáp binh, hẹn đến mùa xuân tháng 2 sang năm đi đánh Chiêm Thành do đó cho phép xác định Việt sử lược chép đúng tháng xuất quân.
-- Theo tác giả Hoàng Xuân Hãn trong sách Lý Thường Kiệt. Lịch sử ngoại giao, tông giáo triều Lý thì đi: từ Thăng Long đến cửa Đại An ở Nam Định mất 1 ngày, từ cửa Đại Ác đến cửa Hội ở Nghệ An mất 3 ngày, từ cửa Hội đến cửa Sót ở Hà Tĩnh mất 1 ngày, từ cửa Sót đến cửa Nhật Lệ ở Quảng Bình mất 3 ngày, từ cửa Nhật Lệ tới cửa Tư Dung ở Huế mất 3 ngày, từ cửa Tư Dung đến Thị Nại ở Bình Định mất 7 ngày.
-- Theo chú thích trong Toàn thư thì bãi cát từ cửa Nhật Lệ đến Cửa Tùng là Đại Trường Sa; bãi cát từ Cửa Việt đến cửa Tư Hiền là Tiểu Trường Sa, như thế nhờ thuận gió mà thời gian đi từ cửa Nhật Lệ đến cửa Tư Dung rút từ 3 ngày xuống còn 1 ngày.
-- Quân Đại Việt khi vượt qua cửa Tư Khách thì đến sông Ngũ Bồ, mà theo hướng bắc xuôi nam thì lần lượt là sông Hương, cửa biển Tư Hiền, đèo Hải Vân, sông Thu Bồn. Nếu sông Ngũ Bồ là sông Hương thì rất khó hiểu khi thuyền vua đi tới cửa Tư Hiền rồi, lại vòng trở ra sông Hương. Sẽ rất hợp lý khi sông Ngũ Bồ là sông Thu Bồn.
-- Tóm lại thời gian kể từ khi đại quân xuất phát từ Thăng Long cho đến khi dàn trận tại bờ bắc sông Ngũ Bồ khoảng 10 ngày. Nhưng đến tháng 7 quân Đại Việt mới vào thành Phật Thệ trong khi thời gian đi từ cửa Đại Chiêm đến cửa Thị Nại khoảng 7 ngày. Như thế quân phương bắc lưu tại Quảng Nam khoảng 100 ngày, nên Toàn thư chép rằng “binh lính chưa chạm mà quân Chiêm đã tan vỡ” cũng rất đáng ngờ. Việt điện u linh bản dịch của tác giả Lê Hữu Mục cho biết “Sạ Đẩu bày tượng trận ở sông Bố Chính, dần dần bị vương sư đánh phá, Sạ Đẩu tử trận”.
-- Các sách Việt sử lược, Toàn thư, Tiền Biên, Cương Mục chép rằng: Quách Gia Di chém đầu chúa Sạ Đẩu đem dâng, chỉ riêng Việt sử tiêu án chép rõ hơn rằng: Quách Gia Di chém chúa nó là Sạ Đẩu đem dâng. Vậy Quách Gia Di là tướng của Chiêm Thành hay tướng của Đại Việt ?
-- Thời Thái Tông và Thánh Tông có 2 vị thái úy họ Quách tên Thạch Ích (1048) và Kinh Nhật (1054) nên có thể Việt sử tiêu án nhầm chăng ?
-- Trên chúng ta đặt nghi ngờ rằng: có thể quân phương bắc bị sa lầy tại sông Ngũ Bồ, thế nên đoạn “vua mới cắt đặt quân sĩ dựng cờ nổi trống, sang tắt ngang sông đánh” được chép trong Toàn thư là mô tả về trận đánh kết thúc. Nhưng với việc cầm cự quân Đại Việt đến khoảng 100 ngày thì không thể nào quân Chiêm Thành “chưa chạm đã tan vỡ”. Lại thêm, Toàn thư cho biết “Gia Di chém Sạ Đẩu tại trận” như thế rõ ràng đã diễn ra một trận đánh. Cuối cùng là Việt sử lược cho biết “quân Chiêm tan vỡ, vua đuổi theo, chém 3 vạn đầu” như thế Lý Thái Tông có tham gia trận đánh cuối cùng trước khi quân Chiêm Thành tan vỡ.
-- Giả thuyết: Sau khi bỏ thuyền lên bộ, dàn quân ở phía bắc sông Ngũ Bồ, chiến sự ở thế giằng co, kéo dài tới khoảng trăm ngày, quân phương bắc đã tiếp cận một vị tướng của chúa Chiêm Thành là Quách Gia Di, theo kế hoạch quân phương bắc dựng cờ nổi trống, vượt thẳng sông sang đánh, đồng thời được Gia Di làm nội ứng, chém chúa Chiêm Thành là Sạ Đẩu khi đang dàn trận nghênh chiến, sự việc bất ngờ khiến quân Chiêm Thành rúng động, mất tinh thần chiến đấu nên chỉ biết bỏ chạy, nhân lợi thế vua Lý dẫn quân truy sát.
(Người viết xin được cảm ơn tác giả Nguyễn Quang Toản đã giúp đỡ tài liệu)