1. Bài
Bàn thêm về sự nghiệp cứu nước và hậu duệ của Lê Hoàn do PGS. TS Trần Bá Chí viết:
“Theo Lê triều miêu duệ và Cổ Mai bi ký thì Khâm là ông nội Trần Bình Trọng. Lê
Khâm đã có công giúp Trần Thừa và Trần Thủ Độ đánh dẹp Nguyễn Nộn đem lại ngôi
báu cho họ Trần, được Trần Thái Tông phong tước Khuông quốc thượng tướng quân,
thượng vị hầu (...) Hai tài liệu trên không nói rõ Lê Khâm là cháu mấy đời của
Lê Đại Hành. Con trai Lê Khâm là Lê Tần (tên tự là Lê Kính). Lê Tần có tài thao
lược, có công giúp vua Trần chống giặc Nguyên Mông lần thứ nhất [1257] Vua Trần
thường cùng Lê Tần bàn những điều cơ mật để chống giặc. Đến ngày giặc Nguyên
thua, Lê Tần cùng Hà Bổng được vua thưởng công. Lê Tần được vua phong tước hầu,
cho quốc tính họ Trần và gả công cho công chúa Chiêu Thánh họ Lý, lại tăng chức
cho Lê Tần từ Ngự sử trung tướng tam ty viện sự lên chức Ngự sử đại phu (...) Rất
có thể [Lê] Tông cũng là Trần Bình Trọng vì Cổ Mai bi ký và ngọc phả chép “Trần
Bình Trọng là con Lê Kính, tức Lê Tần” không ghi thêm con trai nào khác (...)
Suy đoán theo tài liệu hiện có, thì Trần Bình Trọng là con Lê Tần, tức Lê Phụ
Trần, Bình Trọng ra đời năm Kỷ Mùi [1259] năm mà Lý Chiêu Hoàng đã 42 tuổi, mới
được vua gả lại cho Lê Phụ Trần được một năm. Sở dĩ nêu lại vấn đề này, là vì
đã có người nhầm lẫn sử liệu, tưởng Lê Phụ Trần là Trần Bình Trọng, hoặc nhầm
Chiêu Thánh công chúa và Thuỵ Bảo công chúa là một (…) Nếu Lê Phụ Trần chỉ lấy
Lý Chiêu Thánh thôi như sử chép và chỉ có một con trai thôi, thì Trần Bình Trọng
là con Lý Chiêu Hoàng (sau đổi Chiêu Thánh). Chiêu Hoàng lấy Phụ Trần một năm
thì sinh Trần Bình Trọng, Bình Trọng có mấy con trai không rõ. Cổ Mai bi ký, Lê
Trần miêu duệ chỉ chép: Trần Bình Trọng sinh Trần Bình Nguyên”.
Toàn thư chép: “Đinh Tị [1257] Tháng 12 ngày 12, tướng
Nguyên Ngột Lương Hợp Đải xâm phạm Bình Lệ Nguyên. Vua thân hành đốc chiến,
xông pha tên đạn. Quan quân hơi núng, vua ngoảnh trông tả hữu, chỉ có Lê Phụ Trần
(tức Lê Tần) một mình một ngựa, ra vào trận giặc, sắc mặt bình thản như không (…)
Bấy giờ, vua mới lui quân đóng ở sông Lô. Phụ Trần giữ phía sau. Quân giặc bắn
loạn xạ, Phụ Trần lấy ván thuyền che cho vua khỏi trúng tên giặc. Thế giặc rất
mạnh [vua] lại phải lui giữ sông Thiên Mạc. Phụ Trần theo vua bàn những việc cơ
mật, rất ít người biết được đều đó (...) Mậu Ngọ [1258] Mùa xuân tháng giêng
(…) Định công phong tước cho Lê Phụ Trần làm Ngự sử đại phu; lại đem công chúa
Chiêu Thánh gả cho (...) Mậu Dần [1278] Mùa xuân tháng 2, dân chết nhiều vì bệnh
đậu mùa (…) Tháng 3, phu nhân Lê Phụ Trần là công chúa Chiêu Thánh Lý thị mất. Công
chúa lấy Phụ Trần hơn 20 năm, sinh con trai là thượng vị hầu Tông, con gái là Ứng
Thụy công chúa Khuê. Đến nay 61 tuổi thì mất (...) Mùa hạ, lúa mất mùa (…) Mùa
thu tháng 8, động đất 3 lần, nhiều súc vật chết (...) Ất Dậu [1285] Tháng 2 (…)
Bảo Nghĩa Vương Trần Bình Trọng (Vương là dòng dõi Lê Đại Hành, chồng sau của
công chúa Thuỵ Bảo, ông cha làm quan đời Thái Tông, được ban quốc tính) đánh
nhau với giặc ở bãi Đà Mạc, nay là bãi Mạn Trù) bị chết”.
- Tác giả Trần
Bá Chí dựa vào Lê triều miêu duệ và Cổ Mai bi ký để cho rằng: Trần Bình Trọng rất
có thể là Lê Tông, con trai của Lê Phụ Trần [có tên khác là Lê Tần] với Chiêu
Thánh Lý thị, đồng thời là cháu của Khuông quốc thượng tướng quân Lê Khâm, hậu
duệ của Lê Đại Hành hoàng đế. Tôi cho rằng chưa chắc vì:
- Thứ nhất
Toàn thư có chép về việc Lê Phụ Trần cùng Thái Tông chống giặc năm 1257, Ngô sử
gia còn cẩn thận chú thêm tên khác của Phụ Trần là Lê Tần, họ tên này Lê Tắc
cũng có chép đến trong An Nam chí lược như sau “Lê Tần người Ái châu, Thái
vương dùng làm hàn trưởng, từng lấy ván thuyền che cho vương chạy khỏi, nên được
phong làm Bảo Văn hầu, Nhập nội phán thủ”. Lại theo Toàn thư năm 1258, định
công phong thưởng cho Lê Phụ Trần rất hậu: chức ngự sử đại phu, ban cho
Chiêu Thánh phu nhân. Rõ ràng là sau cuộc chiến năm 1257, Lê Tần được ban cho
người vợ là Chiêu Thánh hoàng hậu, được giữ chức Nhập nội phán thủ [Ngự sử đại
phu] và tước hiệu Bảo Văn hầu. Qua nội hàm của cái tên Phụ Trần thì rất có thể
Trần Thái Tông còn ban thêm tên cho Lê Tần, nếu thế vào thời điểm năm 1258, Tần
mới chỉ được ban tên chứ chưa được mang họ Trần [quốc tính] Toàn Thư mục năm
1278 vẫn chép Phụ Trần họ Lê, lại chép thêm con trai là thượng vị hầu tên Tông
nhưng không chép rõ họ, mà theo thông lệ của lối chép thì khả năng rất cao là
Tông mang họ Lê. Nguyên sử chép “bắt được Kiến Đức hầu Trần Trọng” như vậy rõ
ràng vào năm 1285 Bình Trọng có mang quốc tính.
- Thứ hai qua
ghi chép của Ngô sử gia về Phụ Trần thì có vẻ như ngài biết rất rõ về Lê Tần,
nhưng khi ghi chép về Trần Bình Trọng thì ngài chỉ viết rằng “ông cha làm quan
dưới thời Thái Tông” mà không viết rõ cha của Trần Bình Trọng là Lê Phụ Trần
nên tôi cho rằng Lê Tần không phải là Lê Tông như giả thuyết của tác giả Trần
Bá Chí.
- Việt sử tiêu
án của Ngô Thì Sĩ viết rằng “Bà Chiêu Thánh mất, khi đã 61 tuổi. Tỉnh Bắc Giang
có đầm Minh Châu, giữa đầm có phiến đá to, người ta truyền lại rằng bà Chiêu
Thánh ôm hòn đá nhảy xuống đầm mà chết, trên bờ đầm có miếu Chiêu Hoàng”. Toàn
thư chép năm 1278, Chiêu Hoàng mất nhưng không nói rõ nguyên nhân, lại thêm lúc
này Lý thị cũng đã 61 tuổi, do đó cách hiểu thông thường phải là bà chết do tuổi
già, tuy nhiên vẫn xuất hiện những thuyết, bà mất là do tự vẫn. Xem các sự kiện
năm 1278 thì thấy rằng tháng 2 có dịch bệnh đậu mùa dân chết nhiều, mùa hạ bị mất
mùa có lẽ do hạn hán, tháng 8 nhiều súc vật chết, trong khi bà Chiêu Hoàng mất
vào tháng 3, liền kề với tháng có dịch đậu mùa, nên tôi đặt giả thuyết: Chiêu
Thánh mất do bệnh.
2. Toàn
thư chép: “Canh Thìn [980] Mùa thu tháng 7 (…) Thái hậu thấy mọi người vui lòng
quy phục bèn sai lấy áo long cổn khoác lên người Lê Hoàn, mời lên ngôi
Hoàng đế (...) Truy phong cha của vua [Hoàn] làm Trường Hưng Vương, mẹ họ Đặng
làm Hoàng thái hậu (...) Đại Hành hoàng đế, họ Lê tên huý là Hoàn, người Ái
Châu, làm quan nhà Đinh đến chức Thập đạo tướng quân (…) Trước kia cha vua là Mịch,
mẹ là Đặng thị, khi mới có thai chiêm bao thấy trong bụng nở hoa sen, chỉ chốc
lát đã kết hạt, bèn lấy chia cho mọi người, còn mình thì không ăn, tỉnh dậy
không hiểu nguyên do thế nào. Đến khi năm Thiên Phúc thứ 6 thời Tấn [941] là
năm Tân Sửu, mùa thu tháng bảy ngày 15, sinh ra vua (...) Bính Tý [1216] Mùa
xuân, sách phong ngự nữ làm Thuận Trinh phu nhân. Thái hậu cho Trần Tự Khánh là
kẻ phản trắc, thường chỉ phu nhân mà nói là bè đảng của giặc, bảo vua đuổi bỏ
đi; lại sai người nói với phu nhân bảo phải tự sát. Vua biết mới ngăn lại. Thái
hậu bỏ thuốc độc vào món ăn uống của phu nhân. Mỗi bữa ăn vua chia cho phu nhân
một nữa và không lúc nào cho rời bên cạnh. Thái hậu lại sai người cầm chén thuốc
độc bắt phu nhân phải chết. Vua lại ngăn không cho, rồi đêm ấy cùng với phu
nhân lẻn đi đến chổ quân của Tự Khánh; gặp khi trời đã sáng, phải nghĩ lại ở
nhà tướng quân Lê Mịch ở huyện Yên Duyên, gặp tướng của Tự Khánh là Vương Lê
đem binh thuyền đến đón. Vua mới đỗ lại ở bãi Cửu Liên. Truyền cho Tự Khánh đến
chầu (...) Ất Dậu [1125] Chiêu Hoàng bèn trút bỏ áo ngự mời Trần Cảnh lên
ngôi hoàng đế (...) Thái Tông hoàng đế, họ Trần tên húy là Cảnh, trước tên húy
là Bồ, làm Chi hậu chính triều Lý, được Chiêu Hoàng nhường ngôi, ở ngôi 33 năm
[1226-1258] nhường ngôi 19 năm, thọ 60 tuổi [1218-1277] băng ở cung Vạn Thọ,
táng ở Chiêu Lăng (...) Vua là con thứ của Thừa, mẹ họ Lê, sinh ngày 16 tháng 6
năm Mậu Dần, Kiến Gia thứ 8 triều Lý (...) Bính Tuất [1226] Mùa đông tháng
10, tôn cha là Thừa làm Thượng hoàng, ở cung Phụ Thiên, phường Hạc Kiều phía
bên tả. Hễ khi nước có việc lớn, thì ở trong đó xem xét, quyết định. Tôn mẹ là
Lê thị làm Quốc Thánh hoàng thái hậu [có sách chép là Bảo Thánh Quốc mẫu] Canh
Dần [1230 ] Tháng 9, Quốc Thánh hoàng thái hậu băng, truy tôn làm Thuận
Từ hoàng thái hậu”.
- Theo như
Toàn thư mục năm 1285 thì Ngô sử gia biết rằng: Bình Trọng vốn người họ Lê được
ban quốc tính, ông và cha của Bảo Nghĩa vương làm quan dưới triều Trần Thái
Tông, nhưng có vẻ như Ngô Sĩ Liên không biết tên ông và cha của Trần Bình Trọng.
Toàn thư chép năm 1216, vua Lý Huệ Tông cùng phu nhân Trần thị, nhân ban đêm trốn
từ cầu Tây Dương [Cầu Giấy] đến Thuận Lưu, giữa đường có nghỉ lại nhà tướng
quân Lê Mịch ở huyện Yên Duyên [Hoàng Mai]
- Thứ nhất vợ
chồng Huệ Tông nghỉ lại nhà tướng quân Lê Mịch, cho thấy Trần thị rất tin tưởng
vị tướng quân ở huyện Yên Duyên. Thứ hai thuộc hạ của Trần Tự Khánh là Vương Lê
biết vợ chồng Huệ Tông ở nhà Lê Mịch nên đã đem thuyền đến đón, như thế đã có
người thông báo cho Tự Khánh biết để đến đón. Thứ ba vợ của Trần Thừa, cũng đồng
thời là chị dâu của Kiến Quốc vương là người họ Lê. Do đó, tôi đặt giả thuyết: tướng
quân Lê Mịch có mối quan hệ thân tộc với Quốc Thánh hoàng thái hậu.
- Theo như
Toàn thư mục năm 980 thì thân phụ của Lê Đại Hành có họ tên là Lê Mịch, có họ
tên trùng với tướng quân ở huyện Yên Duyên. Vì thế tôi đặt ra một kịch bản như
sau: Bình Trọng vốn là người họ Lê, hậu duệ của tướng quân Lê Mịch ở huyện Yên
Duyên, do vị tướng quân này có mối quan hệ thân tộc với Quốc Thánh hoàng thái hậu
nên được phong vương hầu, ban quốc tính. Do tục kiêng húy và khoảng thời gian
dài nên người đời đã đồng nhất hai ngài Lê Mịch với nhau, thành ra Trần Bình Trọng
được kết nối với Lê Đại Hành hoàng đế, sau khi thao tác kết nối đã hoàn thành
thì yếu tố Lê Mịch cũng biến mất, thành ra cuối cùng chúng ta có như Ngô sử gia
chép: Bảo Nghĩa vương là hậu duệ của Lê Hoàn.
- Bảo Nghĩa
vương lấy công chúa Thụy Bảo, là con gái của Thái Tông, như thế thân phụ của Bình
Trọng rất có thể cùng hàng với Trần Cảnh và tổ phụ của Kiến Đức hầu cùng hàng với
Thái Tổ và Quốc Thánh hoàng thái hậu. Toàn thư cho biết ông và cha của Trần
Bình Trọng làm quan dưới triều Thái Tông [1225-1258] trong khi đó Lê Mịch tướng
quân đã xuất hiện vào thời Lý. Trần Thừa sinh năm 1184 nên vào năm 1216 ngài 32
tuổi. Nếu Lê Mịch là thân phụ của Quốc Thánh phu nhân thì ngài khoảng 45 tuổi,
vào năm 1225 ngài khoảng 55 tuổi.
3. Khóa hư lục chép: “"Năm mười sáu tuổi, Thái hậu đã chán cõi đời, Trẫm
nằm rơm gối đất, khóc ra máu mắt, đau đớn nát lòng; ngoài nỗi đau buồn này, đâu
rảnh nghĩ việc khác. Chỉ vài năm sau, Thái Tổ Hoàng đế cũng băng hà (…) Ta lòng
riêng tự bảo trên đã không còn cha mẹ để tựa nương, dưới ngại chẳng xứng
lòng dân mong đợi. Phải làm sao đây? Ta suy đi nghĩ lại, chi bằng lui
về ở chốn núi rừng, tìm học Phật pháp để hiểu
rõ việc lớn sanh tử, lấy đó đền đáp công ơn cha mẹ, chẳng
hay hơn sao ? Thế là chí Trẫm đã quyết định. Đêm mùng ba tháng tư năm Bính
Thân, niên hiệu Thiên Ứng Chính Bình thứ năm [1236] Trẫm đổi y phục đi
ra khỏi cửa cung (…) tới sườn núi Yên Tử (...) tham kiến vị Đại
Sa-môn Quốc sư Trúc Lâm. Quốc sư vừa thấy Trẫm mừng rỡ (…) Bấy
giờ ông chú Trần Công - người em họ mà tiên quân gởi gắm đứa con côi, sau khi
tiên quân bỏ thế gian và quần thần, Trẫm phong làm Thái sư tham
dự quốc chánh - nghe tin Trẫm trốn đi, ông liền sai tả hữu đi mọi
nơi dò tìm tung tích, rồi cùng người trong nước lên đến núi này. Gặp
Trẫm, ông thống thiết nói: Thần nhận sự ủy thác của tiên
quân, tôn Bệ hạ làm chúa thần dân. Lòng dân trông đợi ở Bệ hạ như con
nhỏ mong đợi cha mẹ. Huống nữa, ngày nay các cố lão trong triều đều
là bề tôi thân thuộc, dân chúng sĩ thứ ai cũng vui vẻ phục
tùng. Cho đến đứa bé lên bảy cũng biết Bệ hạ là cha mẹ dân.
Vả Thái Tổ bỏ thần mà đi, nắm đất trên mồ chưa khô, lời dặn dò
còn vẳng bên tai. Mà nay Bệ hạ trốn lánh vào núi rừng, ẩn cư để
mong thỏa mãn chí mình. Như thần nghĩ, Bệ hạ tính kế tự tu thì có thể
được, còn quốc gia xã tắc thì sao ? Chỉ để lời dạy suông cho đời
sau, chi bằng đem thân mình làm gương trước cho thiên hạ. Bệ hạ nếu
không nghĩ lại, chúng thần cùng người trong thiên hạ đồng chết
ngay hôm nay, quyết chí không trở về. Trẫm thấy Thái sư cùng các
cố lão quần thần không có ý bỏ Trẫm, liền đem lời này tỏ bày với Quốc
sư. Quốc sư cầm tay Trẫm bảo: Phàm làm đấng nhân quân, phải lấy ý
muốn của thiên hạ làm ý muốn của mình, lấy tâm của thiên
hạ làm tâm của mình. Nay thiên hạ muốn đón Bệ hạ trở về, Bệ
hạ không về sao được. Song phần nghiên cứu nội điển, mong Bệ hạ đừng xao
lãng. Vì thế, Trẫm cùng mọi người trở về kinh, miễn cưỡng lên
ngôi. Khoảng hơn mười năm, những khi được rảnh rỗi, Trẫm tập họp các vị kỳ đức
để tham cứu thiền (…) Trẫm (…) sai thợ viết chữ chân phương, ra
lệnh khắc bản in. Chẳng những để chỉ đường mê cho hậu thế, mà
còn muốn tiếp nối công lớn các bậc Thánh nhân đời trước. Vì
thế tự làm lời tựa này" [Bản dịch của Thích Thanh Từ]
Toàn thư chép: “Giáp Ngọ [1234] Mùa
xuân tháng giêng ngày 18, thượng hoàng băng ở cung Phụ Thiên, thọ 51 tuổi (...)
Mùa thu tháng 8, Lấy thái úy [ Trần] Liễu làm phụ chính, sách phong làm Hiển
Hoàng. Phong Trần Thủ Độ làm Thống quốc thái sư, tri Thanh Hóa phủ sự. Gia
phong thái phó triều Lý là Phùng Tá Chu làm Hưng Nhân Vương; Quan nội hầu Phạm
Kính Ân làm Thái phó, tước Bảo Trung quan nội hầu (...) Bính Thân [1236] Mùa
xuân tháng giêng, định lệ cấp lương bổng cho các quan văn võ trong ngoài và các
quan ở cung điện, năng miếu, chia tiền thuế, ban cấp theo thứ bậc. Tháng 2, định
quan hàm cho các đại thần. Phàm người tôn thất vào chính phủ, hoặc là Thái sư,
Thái phó, Thái bảo, Thái uý hoặc là Tư đồ, Tả Hữu tướng quốc, đều kiêm hàm Kiểm
hiệu đặc tiến nghi đồng tam ty bình chương sự (...) Mùa hạ tháng 6, nước to vỡ
tràn vào cung Lệ Thiên. Bấy giờ Hiển Hoàng [Trần] Liễu làm tri Thánh Từ cung,
nhân nước to, đi thuyền vào chầu, thấy người phi cũ của triều Lý liền cưỡng dâm
ở cung Lệ Thiên. Đình thân hặc tâu, vì thế mới đổi tên cung Thưởng Xuân, giáng
Hiển làm Hoài Vương (...) Mùa đông tháng 10, Gia phong Hưng Nhân Vương Phùng Tá
Chu làm Đại Vương; Quan nội hầu Phạm Kính Ân làm Thái úy, ban cho mũ áo đại
vương (...) Đinh Dậu [ Thiên Ứng Chính Bình] năm thứ 6 [1237] Mùa xuân
tháng giêng, lập công chúa Thuận Thiên họ Lý, là vợ của Hoài Vương Liễu, anh
vua, làm hoàng hậu Thuận Thiên. Giáng Chiêu Thánh làm công chúa. Bấy giờ Chiêu
Thánh không có con mà Thuận Thiên đã có mang Quốc Khang 3 tháng. Trần Thủ Độ và
công chúa Thiên Cực bàn kính với vua là nên mạo nhận lấy để làm chổ dựa về sau,
cho nên có lệnh ấy. Vì thế, Liễu họp quân ra sông Cái làm loạn. Vua trong lòng
áy náy, ban đêm, ra khỏi kinh thành đến chỗ quốc sư Phù Vân (quốc sư là bạn cũ
của Thái Tông) trên núi Yên Tử rồi ở lại đó”.
Thánh Đăng lục chép: “Vua Trần Thái
Tông. là vua thứ hai đời Trần, con của Thái Tổ. Lên ngôi ngày mùng 10 tháng 12
năm Ất Dậu [1225] đổi niên hiệu Kiến Trung, thiên tư khác thường, thánh học cao
minh, lại thêm rất lưu tâm nơi Phật giáo (…) Qua niên hiệu Thiên Ứng Chính Bình
thứ năm [1236] tức tháng tư năm Bính Thân, nửa đêm Thái Tông vượt thành sang
sông đi về hướng đông, thẳng lên chùa Vân Yên núi Yên Tử, vào tham kiến quốc sư
Trúc Lâm Viên Chứng. Do đây vua càng dốc chí nơi Thiền học. Khi muôn việc rảnh
rỗi thì nhóm họp các bậc kỳ túc thưa hỏi” [Đời Trần. Theo hòa thượng Thích
Thanh Từ]
- Rõ ràng có điểm rất giống nhau về sự kiện “ban đêm, Thái Tông đến tham
bái quốc sư ở núi Yên Tử”. Toàn thư cho biết vị quốc sư đó tên là Phù Vân,
trong khi Thánh Đăng lục cho biết vị quốc sư ấy tên là Viên Chứng. Giáo sư Nguyễn
Lang trong Việt Nam phật giáo sử luận cho rằng rất có thể sách đã chép sai vì
Phù Vân là hiệu của thiền sư Tĩnh Lự, thuộc thế hệ thứ 10 của thiền phái
Trúc Lâm Yên Tử. Thiền sư Viên Chứng được nhiều nhà nghiên cứu đồng nhất với
thiền sư Đạo Viên.
Thiền uyển tập anh chép: “Thiền sư
Huyền Quang [???-1221] núi Yên Tử, người kinh sư, họ Lê tên Thuần (…) năm vừa
11 tuổi Thường Chiếu chùa Lục Tổ thấy đem về nuôi, cho làm đệ tử (…) sau vì nhận
sự cúng dường của công chúa Hoa Dương [Việt sử lược chép: “Trinh Phù năm thứ 5
[1180] mùa đông, cho thủ lĩnh châu Vị Long là Hà Công Phụ cưới công chúa Hoa Dương]
mà tiếng đời phỉ báng nổi lên như ong (…) Rồi sư vào thẳng trong núi Uyên Trừng,
phủ Nghệ An, theo thiền sư Pháp Giới thọ giới cụ túc (…) Lý Huệ Tông khâm phục
đời sống cao thượng của sư, đã nhiều lần sắm lễ đi đón, sư lánh mặt (…) Mùa
xuân năm Kiến Gia thứ 11 [1221] sư an nhiên mà tịch, môn đồ Đại Viên sắm đủ lễ
an táng sư trong núi”.
- Môn đồ Đại Viên chính là thiền sư Đạo Viên, là bạn cũ của Thái Tổ Trần
Thừa và cũng chính là vị quốc sư ở núi Yên Tử mà ban đêm Trần Cảnh bỏ thành, vượt
sông đến tham bái. Rõ ràng việc “bỏ thành, vượt sông” không đơn giản chỉ là
“tham bái”. Như Toàn thư cho biết trước áp lực từ việc Trần Thủ Độ bàn kín chuyện
cướp vợ, buộc người anh là Trần Liễu làm loạn đã khiến Thái Tông bỏ ngôi mà
tham bái phật học. Toàn thư và Thánh Đăng lục còn chép sai khác vào thời điểm
mà Trần Cảnh bỏ thành, vượt sông. Trong trường hợp này, tôi cho rằng sách gần với
sự kiện hơn thì có giá trị hơn, do đó sự kiện Thái Tông nửa đêm, bỏ thành, vượt
sông, cũng có nghĩa việc Trần Liễu làm loạn phải xảy ra vào tháng 4/1236.
- Theo Toàn
thư thì Thái Tông Trần Cảnh sinh năm 1218, khi 16 tuổi mẹ của ngài là Lê thị mất,
như thế Quốc Thánh hoàng thái hậu phải mất vào năm 1233, chứ không phải năm
1230. Theo Thiền uyển tập anh thì thiền sư Huyền Quang họ Lê người kinh sư, có
môn đồ là Đại Viên, vốn là bạn cũ của Trần Thừa, trong khi vợ của Thái Tổ cũng
người họ Lê và rất có thể có mối quan hệ thân tộc với vị tướng quân người kinh
sư là Lê Mịch.
- Sách Khóa hư lục có chép chi tiết “em họ tiên quân được gửi gắm con côi
(…) trẫm đã phong làm thái sư, tham dự quốc chính (…) Thần nhận sự ủy
thác của Tiên quân, tôn phong bệ hạ làm chúa tể dân thần”. Rõ ràng là khi
Trần Thừa còn sống, quyền lực trong triều do Thái Tổ nắm cả, tới khi mất thì có
gửi gắm Trần Cảnh cho Trần Thủ Độ, Trung Vũ vương lúc này được phong Thống quốc
thái sư, tham dự triều chính. Nhưng Trần Thái Tông cũng đồng thời phong cho anh
trai Trần Liễu làm Hiển hoàng, các lão thần như Phùng Tá Chu làm Hưng Nhân
vương, Phạm Kính Ân làm thái phó, tước Bảo Trung hầu. Thời điểm sau khi Thái Tổ
băng, Trần Cảnh liên tục có những động thái vỗ về quan lại, mục đích hẳn là tìm
kiếm sự trung thành.
- Trần Cảnh thì hẳn là hoàng đế từ khi Thái Tông còn sống, vậy thì sao Trần
Thủ Độ lại còn nhận sự ủy thác, mà tôn phong bệ hạ làm chúa tể ? Phải chăng vào
thời điểm đó, Trần Cảnh không có thực quyền và chịu lép vế trước Trần Liễu, do
đó việc “tôn phong làm chúa tể” của Trần Thủ Độ như là một động thái khẳng định
quyền thống trị của Thái Tông. Rõ ràng là với tước Hiển hoàng, Trần Liễu chỉ đứng
sau hoàng đế về mặt danh nghĩa. Tôi cho rằng Trần Cảnh đứng trước tình trạng tiến
thoài lưỡng nam, người có thể tin tưởng nhất là người anh trai Trần Liễu, người
mà Thái Tông có thể cùng hợp sức chống lại các lão thần trong đó có cả Trần Thủ
Độ, thế nhưng Trần Cảnh lại không có sự tin tưởng tuyệt đối với Hiển hoàng, để
rồi vào năm 1237 khi Liễu tự lượng thế cô, đến chỗ vua xin hàng, Thủ Độ toan giết
thì Thái Tông đã lấy người che cho Hiển hoàng, khiến Trung Vũ vương phải thốt
lên “Ta chỉ là con chó săn thôi, biết đâu anh em các người thuận nghịch thế
nào”. Đúng là như vậy, tình thế của Trần Thái Tông là không thể tin hẳn, nhưng
nếu không tin thì chẳng còn biết tin ai.
- Lại nói về việc Trần Liễu cưỡng dâm người phi cũ của triều Lý ở cung Lệ
Thiên, khiên các đình thân hặc tấu nên buộc phải giáng Hiển hoàng làm Hoài
vương. Với tước Hiển hoàng thì hẳn người tấu kể tội Trần Liễu mà buộc Trần Thái
Tông phải giáng Liễu làm Hoài vương thì người đó cũng không phải tầm thường.
Chúng ta biết rằng nhánh An Quốc vương và Trung Vũ vương có mối quan hệ với rất
nhiều người là tôn thất họ Lý cũ, do đó mà tôi ngờ rằng người phi cũ này có mối
quan hệ với nhánh Trần Thẩm, Trần Thủ Độ, nhưng chính xác mối quan hệ đó như thế
nào thì chúng ta sẽ bàn sau. Tôi cho rằng sự biến những năm 1236 mà các sự kiện
như Trần Liễu cưỡng dâm người phi cũ của triều Lý hoặc Trần Thủ Độ bàn với Trần
Cảnh cướp vợ của Hiển hoàng, chẳng qua là những nút thắt mà thôi, chứ ẩn đằng
sau là việc quyền lực tập trung [khi Trần Thừa còn sống] bị phân tách cho từng
thế lực [Trần Liễu, Trần Thủ Độ]
4. Toàn
thư chép: “Bính Tý [1276] Mùa thu tháng 9 ngày 17, hoàng trưởng tôn Thuyên
sinh, lập làm hoàng thái tôn, ít lâu sau lập làm Đông cung hoàng thái tử (...) Canh
Tý [1300] Mùa thu tháng 8 (…) hoàng tử Mạnh sinh. Bấy giờ, các hoàng tử đều
không nuôi được, đến khi Mạnh sinh, vua nhờ công chúa Thụy Bảo [tức là cô của
Nhân Tông] nuôi hộ. Nhưng công chúa cho là bấy giờ bà đương có vận hạn, lại nhờ
Nhật Duật nuôi [Nhật Duật là anh công chúa Thụy Bảo] Giáp Dần [1314] vua nhường
ngôi cho hoàng thái tử Mạnh (…) con thứ tư của Anh Tông, mẹ đích là Thuận Thánh
Bảo Từ hoàng thái hậu Trần thị, con gái của Hưng Nhượng Đại Vương Quốc Tảng, mẹ
sinh là Chiêu Hiến hoàng thái hậu Trần thị, con gái của Bảo Nghĩa Vương Bình Trọng”.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét