Thứ Sáu, 30 tháng 3, 2018

TRẦN TỰ KHÁNH CHẾT VÀ LÊ NGUYÊN TÔNG

1/ Việt sử lược chép rằng: tháng 1/1223 thái úy Trần Tự Khánh sai người bắt Bảo Tín hầu, Lại Linh [sợ nên] thắt cổ tự chết, tháng 10/1223 thái úy đánh Sơn Lão ở sách Mông, tháng 12/1223 phụ quốc Trần Tự Khánh chết ở nhà tại Phù Liệt [Thanh Trì] và hổ ( 虎 ) vào các thôn ấp, tháng 1/1224 an táng Kiến Quốc vương Trần Tự Khánh tại Mỹ Lộc, tiến phong thượng phẩm hầu Trần Báo ( 陳豹 ) tước vương, hiệu Hiển Thánh.
Theo dõi Việt sử lược sẽ nhận ra: thứ nhất sách thường viết những thông tin mang tính điềm báo và thứ hai sách chép rất ít về "hổ" [người viết] thấy có khoảng 3 chỗ viết tới hổ [1 chỗ thời Đinh khi Bộ Lĩnh đặt vạc dầu, chuồng hổ để trừng phạt những người phạm lỗi, 1 chỗ thời Lý khi Cao Tông lệnh cho vị sư vào chuồng hổ để dùng phép thuần phục] nên sự kiện "hổ vào các thôn ấp" được chép vào tháng 12/1223 thực sự rất đáng ngờ, tôi cho rằng nó là điềm báo hơn là thông tin sử liệu.
Trong bài viết về cái chết của Chương Thành hầu Trần Tự Khánh tôi có đưa ra giả thuyết: người sát hại Kiến Quốc vương chính là anh trai khác mẹ Thái Tổ Trần Thừa. Sau khi thu phục được Hà Cao năm 1220 về cơ bản Tự Khánh đã dẹp xong các thế lực chống đối, năm 1221 Chương Thành hầu tiến thêm 1 bước nừa là sát hại Huệ Văn vương, năm 1222 Kiến Quốc vương thực hiện bước cuối cùng là xin cho con trai là Hiển Đạo vương Trần Hải cưới công chúa, Lý Huệ Tông không có con, thì ngôi hoàng đế tất phải rơi vào tay cha con Tự Khánh.
Thấy rõ tiến trình, muốn tranh Trần Thừa phải ra tay trước, Trần Thừa liên hiệp với Bảo Tín hầu Lại Linh làm phản nhưng thất bại, Lại Linh buộc phải thắt cổ chết, nhưng rồi sau Tự Khánh cũng chết và tất nhiên Trần Thừa giữ chức thái úy thay em và cũng nạp lễ xin cướp công chúa của Huệ Tông cho con trai là Thái Tông Trần Cảnh. Căn cứ vào tên hiệu "Hiển" thì rõ ràng Trần Báo là người có vai trò quan trọng sau Trần Thừa thời điểm sau khi an táng Tự Khánh.
Nên ngờ rằng: người liên hiệp với Trần Thừa để sát hại Trần Tự Khánh là Trần Báo và thú vị là "loài báo" cùng họ với "loài hổ". Rất có thể "hổ vào các thôn ấp" là thông tin ám chỉ Trần Báo có liên quan tới cái chết của Trần Tự Khánh và là người nắm giữ binh quyền trấn áp các thế lực ở trong nước sau khi Chương Thành hầu chết.
Cuối cùng là 2 câu hỏi:
Thứ nhất là nếu Lại Linh liên hiệp với Trần Thừa âm mưu làm phản thì vì sao Trần Thừa không bị nghi ngờ, sợ rằng Thừa đã biết tin Trần Tự Khánh muốn bắt Bảo Tín hầu nên đã ra tay trước, hòng bịt đầu mối.
Thứ hai là vào tháng 10/1222 Trần Hải nạp lễ cầu hôn công chúa, trong khi đến tháng 10/1223 Trần Tự Khánh vẫn giữ binh quyền, vậy thì liệu Hiển Đạo vương có cưới được vị công chúa nào không ? Toàn thư chỉ chép đến 2 nàng công chúa của Lý Huệ Tông là Thuận Thiên và Chiêu Thánh, nên tôi ngờ rằng: người chồng đầu của Thuận Thiên công chúa không phải là Phụng Càn vương Trần Liễu mà là Hiển Đạo vương Trần Hải và đó cũng là lý do giải thích vì sao: Huệ Tông lại nhường ngôi cho công chúa Chiêu Thánh chứ không phải công chúa Thuận Thiên
[Công chúa Thuận Thiên sinh năm 1216, công chúa Chiêu Thánh sinh năm 1218. Vào năm 1223, lúc này công chúa Thuận Thiên 7 tuổi, rõ là chưa đến tuổi kết hôn, nên có thể khẳng định Trần Tự Khánh dâng lễ cầu hôn là để thực hiện âm mưu. Nếu Trần Hải chưa lấy được Thuận Thiên thì Trần Liễu sinh năm 1211 hoàn toàn có thể kết hôn với Thuận Thiên sau đó Huệ Tông nhường ngôi cho Thuận Thiên và công chúa nhường lại ngôi cho Trần Liễu. Trần Cảnh sinh năm 1218 bằng tuổi với Chiêu Thánh và kém Thuận Thiên 2 tuổi]
2/ Đọc đến An Nam truyện trong Nguyên Sử do Mr Châu Hải Đường dịch, thấy có việc này cần đặt ra để bàn thêm.
Tháng 8/1284 [trang 64] em Nhật Huyên là Chiêu Đức vương Trần Xán gửi thư đến Kinh Hồ Chiêm Thành hành sảnh, tự nguyện nạp khoản quy hàng. Mr Hải Đường cho rằng "có lẽ Trần Xán ở đây chính là Chiêu Quốc vương Trần Ích Tắc" vì TB.BK [Đại Việt sử ký tiền biên - Bản kỷ] có chép Trần Ích Tắc từng gửi thư riêng nhờ bọn lái buôn ở Vân Đồn xin nhà Nguyên đem quân xuống nước Nam [Chú thích số 2 trang 64]
Tháng [3/1285] [trang 70] Em Nhật Huyên là Chiêu Quốc vương Trần Ích Tắc đem tôn tộc cùng vợ con, lai thuộc đến hàng.
Không khó để nhận ra có 2 tước hiệu cũng như tên khác nhau là: Chiêu Đức vương Trần Xán và Chiêu Quốc vương Trần Ích Tắc. Không rõ vì sao có sự khác nhau này ? Nhưng thực tế là trong An Nam chí lược của Lê Tắc vẫn thường có sự sai khác tương tự.
Nhưng An Nam chí lược không thấy chép đến sự kiện Trần Ích Tắc gửi thư riêng cho nhà Nguyên như Toàn thư mục năm 1285. Có khi nào Ngô sử gia nhầm lẫn không ? Nhưng Toàn thư mục năm 1289 có chép việc vua bắt được hòm biểu xin hàng của các vương hầu An Nam, để yên lòng những kẻ phản trắc sau khi quân Nguyên thất bại, vua đã cho đốt đi, như thế không loại trừ trường hợp Trần Xán và Trần Ích Tắc [và cả các vương hầu khác] đều gửi thư riêng cho người phương bắc.
Trong bản dịch của Mr Hải Đường thì Trần Xán chỉ xin "tự nguyện nạp khoản quy hàng" trong khi bản dịch của Toàn thư thì Trần Ích Tắc xin nhà Nguyên "đem quân xuống nước Nam". Hai sự việc không cùng tính chất. Thế nhưng 2 sự việc được chép ở 2 sách khác nhau, có khi nào Trần Xán [Trần Ích Tắc] chỉ gửi thư "xin nạp hàng" như các vương hầu khác [được chép trong Nguyên sử và cũng là chuyện thường nên An Nam chí lược không chép lại] nhưng khi Toàn thư được soạn thì biểu tấu của Trần Ích Tắc được gia thêm [do người đời] thành "xin quân".
Rốt lại Chiêu Đức vương Trần Xán và Chiêu Quốc vương Trần Ích Tắc là như thế nào ???

2. Toàn thư chép: Mậu dần (1278) tháng 3, vợ của Lê Phụ Trần là công chúa Chiêu Thánh mất, nàng lấy Bảo Văn hầu hơn 20 năm (1258-1278) sinh con trai là Thượng vị hầu Tông [上 位 侯 宗] và con gái là công chúa Ứng Thụy tên Khuê.
Toàn thư lại chép: Bính ngọ (1306) tháng 9, sai Hàn lâm học sĩ Lê Tông Nguyên [黎 宗 元] Trung thị đại phu Bùi Mộc Đạc sang nhà Nguyên đáp lễ.
Khi đọc cảm thấy có chút ngờ ngợ về nhân vật Lê Tông Nguyên này rồi. Nên tra thêm An Nam chí lược thì 
An Nam chí lược (sứ thần đời Trần) chép: Đại đức bính ngọ, khiển đại phu phí mộc đạc, lê nguyên tông [黎元宗] cống
Nguyên sử (bản kỳ) chép: Đại Đức năm thứ 10 tháng 10, an nam quốc khiển lê kháng tông [黎亢宗] lai cống phương vật
-----> chữ Nguyên với chữ Kháng chắc tự dạng gần giống nhau nên bị chép nhầm và rất có thể Toàn thư chép lộn, tiếc là Cương mục không chép đến để đối chiếu 
-----> năm 1258 bà Chiêu Thánh lấy Phụ Trần, cứ giả sinh con trai vào năm 1260, thì đến năm 1306 ngài Thượng vị hầu Tông khoảng 46 tuổi, nên nếu cho rằng vị thượng vị hầu kia là ngài Hàn lâm học sĩ cũng không phải là không thể ?

BÀN VỀ THÂN THẾ CỦA TRẦN BÌNH TRỌNG


1. Bài Bàn thêm về sự nghiệp cứu nước và hậu duệ của Lê Hoàn do PGS. TS Trần Bá Chí viết: “Theo Lê triều miêu duệ và Cổ Mai bi ký thì Khâm là ông nội Trần Bình Trọng. Lê Khâm đã có công giúp Trần Thừa và Trần Thủ Độ đánh dẹp Nguyễn Nộn đem lại ngôi báu cho họ Trần, được Trần Thái Tông phong tước Khuông quốc thượng tướng quân, thượng vị hầu (...) Hai tài liệu trên không nói rõ Lê Khâm là cháu mấy đời của Lê Đại Hành. Con trai Lê Khâm là Lê Tần (tên tự là Lê Kính). Lê Tần có tài thao lược, có công giúp vua Trần chống giặc Nguyên Mông lần thứ nhất [1257] Vua Trần thường cùng Lê Tần bàn những điều cơ mật để chống giặc. Đến ngày giặc Nguyên thua, Lê Tần cùng Hà Bổng được vua thưởng công. Lê Tần được vua phong tước hầu, cho quốc tính họ Trần và gả công cho công chúa Chiêu Thánh họ Lý, lại tăng chức cho Lê Tần từ Ngự sử trung tướng tam ty viện sự lên chức Ngự sử đại phu (...) Rất có thể [Lê] Tông cũng là Trần Bình Trọng vì Cổ Mai bi ký và ngọc phả chép “Trần Bình Trọng là con Lê Kính, tức Lê Tần” không ghi thêm con trai nào khác (...) Suy đoán theo tài liệu hiện có, thì Trần Bình Trọng là con Lê Tần, tức Lê Phụ Trần, Bình Trọng ra đời năm Kỷ Mùi [1259] năm mà Lý Chiêu Hoàng đã 42 tuổi, mới được vua gả lại cho Lê Phụ Trần được một năm. Sở dĩ nêu lại vấn đề này, là vì đã có người nhầm lẫn sử liệu, tưởng Lê Phụ Trần là Trần Bình Trọng, hoặc nhầm Chiêu Thánh công chúa và Thuỵ Bảo công chúa là một (…) Nếu Lê Phụ Trần chỉ lấy Lý Chiêu Thánh thôi như sử chép và chỉ có một con trai thôi, thì Trần Bình Trọng là con Lý Chiêu Hoàng (sau đổi Chiêu Thánh). Chiêu Hoàng lấy Phụ Trần một năm thì sinh Trần Bình Trọng, Bình Trọng có mấy con trai không rõ. Cổ Mai bi ký, Lê Trần miêu duệ chỉ chép: Trần Bình Trọng sinh Trần Bình Nguyên”.
Toàn thư chép: “Đinh Tị [1257] Tháng 12 ngày 12, tướng Nguyên Ngột Lương Hợp Đải xâm phạm Bình Lệ Nguyên. Vua thân hành đốc chiến, xông pha tên đạn. Quan quân hơi núng, vua ngoảnh trông tả hữu, chỉ có Lê Phụ Trần (tức Lê Tần) một mình một ngựa, ra vào trận giặc, sắc mặt bình thản như không (…) Bấy giờ, vua mới lui quân đóng ở sông Lô. Phụ Trần giữ phía sau. Quân giặc bắn loạn xạ, Phụ Trần lấy ván thuyền che cho vua khỏi trúng tên giặc. Thế giặc rất mạnh [vua] lại phải lui giữ sông Thiên Mạc. Phụ Trần theo vua bàn những việc cơ mật, rất ít người biết được đều đó (...) Mậu Ngọ [1258] Mùa xuân tháng giêng (…) Định công phong tước cho Lê Phụ Trần làm Ngự sử đại phu; lại đem công chúa Chiêu Thánh gả cho (...) Mậu Dần [1278] Mùa xuân tháng 2, dân chết nhiều vì bệnh đậu mùa (…) Tháng 3, phu nhân Lê Phụ Trần là công chúa Chiêu Thánh Lý thị mất. Công chúa lấy Phụ Trần hơn 20 năm, sinh con trai là thượng vị hầu Tông, con gái là Ứng Thụy công chúa Khuê. Đến nay 61 tuổi thì mất (...) Mùa hạ, lúa mất mùa (…) Mùa thu tháng 8, động đất 3 lần, nhiều súc vật chết (...) Ất Dậu [1285] Tháng 2 (…) Bảo Nghĩa Vương Trần Bình Trọng (Vương là dòng dõi Lê Đại Hành, chồng sau của công chúa Thuỵ Bảo, ông cha làm quan đời Thái Tông, được ban quốc tính) đánh nhau với giặc ở bãi Đà Mạc, nay là bãi Mạn Trù) bị chết”.
- Tác giả Trần Bá Chí dựa vào Lê triều miêu duệ và Cổ Mai bi ký để cho rằng: Trần Bình Trọng rất có thể là Lê Tông, con trai của Lê Phụ Trần [có tên khác là Lê Tần] với Chiêu Thánh Lý thị, đồng thời là cháu của Khuông quốc thượng tướng quân Lê Khâm, hậu duệ của Lê Đại Hành hoàng đế. Tôi cho rằng chưa chắc vì:
- Thứ nhất Toàn thư có chép về việc Lê Phụ Trần cùng Thái Tông chống giặc năm 1257, Ngô sử gia còn cẩn thận chú thêm tên khác của Phụ Trần là Lê Tần, họ tên này Lê Tắc cũng có chép đến trong An Nam chí lược như sau “Lê Tần người Ái châu, Thái vương dùng làm hàn trưởng, từng lấy ván thuyền che cho vương chạy khỏi, nên được phong làm Bảo Văn hầu, Nhập nội phán thủ”. Lại theo Toàn thư năm 1258, định công phong thưởng cho Lê Phụ Trần rất hậu: chức ngự sử đại phu, ban cho Chiêu Thánh phu nhân. Rõ ràng là sau cuộc chiến năm 1257, Lê Tần được ban cho người vợ là Chiêu Thánh hoàng hậu, được giữ chức Nhập nội phán thủ [Ngự sử đại phu] và tước hiệu Bảo Văn hầu. Qua nội hàm của cái tên Phụ Trần thì rất có thể Trần Thái Tông còn ban thêm tên cho Lê Tần, nếu thế vào thời điểm năm 1258, Tần mới chỉ được ban tên chứ chưa được mang họ Trần [quốc tính] Toàn Thư mục năm 1278 vẫn chép Phụ Trần họ Lê, lại chép thêm con trai là thượng vị hầu tên Tông nhưng không chép rõ họ, mà theo thông lệ của lối chép thì khả năng rất cao là Tông mang họ Lê. Nguyên sử chép “bắt được Kiến Đức hầu Trần Trọng” như vậy rõ ràng vào năm 1285 Bình Trọng có mang quốc tính.
- Thứ hai qua ghi chép của Ngô sử gia về Phụ Trần thì có vẻ như ngài biết rất rõ về Lê Tần, nhưng khi ghi chép về Trần Bình Trọng thì ngài chỉ viết rằng “ông cha làm quan dưới thời Thái Tông” mà không viết rõ cha của Trần Bình Trọng là Lê Phụ Trần nên tôi cho rằng Lê Tần không phải là Lê Tông như giả thuyết của tác giả Trần Bá Chí.
- Việt sử tiêu án của Ngô Thì Sĩ viết rằng “Bà Chiêu Thánh mất, khi đã 61 tuổi. Tỉnh Bắc Giang có đầm Minh Châu, giữa đầm có phiến đá to, người ta truyền lại rằng bà Chiêu Thánh ôm hòn đá nhảy xuống đầm mà chết, trên bờ đầm có miếu Chiêu Hoàng”. Toàn thư chép năm 1278, Chiêu Hoàng mất nhưng không nói rõ nguyên nhân, lại thêm lúc này Lý thị cũng đã 61 tuổi, do đó cách hiểu thông thường phải là bà chết do tuổi già, tuy nhiên vẫn xuất hiện những thuyết, bà mất là do tự vẫn. Xem các sự kiện năm 1278 thì thấy rằng tháng 2 có dịch bệnh đậu mùa dân chết nhiều, mùa hạ bị mất mùa có lẽ do hạn hán, tháng 8 nhiều súc vật chết, trong khi bà Chiêu Hoàng mất vào tháng 3, liền kề với tháng có dịch đậu mùa, nên tôi đặt giả thuyết: Chiêu Thánh mất do bệnh.
2. Toàn thư chép: “Canh Thìn [980] Mùa thu tháng 7 (…) Thái hậu thấy mọi người vui lòng quy phục bèn sai lấy áo long cổn khoác lên người Lê Hoàn, mời lên ngôi Hoàng đế (...) Truy phong cha của vua [Hoàn] làm Trường Hưng Vương, mẹ họ Đặng làm Hoàng thái hậu (...) Đại Hành hoàng đế, họ Lê tên huý là Hoàn, người Ái Châu, làm quan nhà Đinh đến chức Thập đạo tướng quân (…) Trước kia cha vua là Mịch, mẹ là Đặng thị, khi mới có thai chiêm bao thấy trong bụng nở hoa sen, chỉ chốc lát đã kết hạt, bèn lấy chia cho mọi người, còn mình thì không ăn, tỉnh dậy không hiểu nguyên do thế nào. Đến khi năm Thiên Phúc thứ 6 thời Tấn [941] là năm Tân Sửu, mùa thu tháng bảy ngày 15, sinh ra vua (...) Bính Tý [1216] Mùa xuân, sách phong ngự nữ làm Thuận Trinh phu nhân. Thái hậu cho Trần Tự Khánh là kẻ phản trắc, thường chỉ phu nhân mà nói là bè đảng của giặc, bảo vua đuổi bỏ đi; lại sai người nói với phu nhân bảo phải tự sát. Vua biết mới ngăn lại. Thái hậu bỏ thuốc độc vào món ăn uống của phu nhân. Mỗi bữa ăn vua chia cho phu nhân một nữa và không lúc nào cho rời bên cạnh. Thái hậu lại sai người cầm chén thuốc độc bắt phu nhân phải chết. Vua lại ngăn không cho, rồi đêm ấy cùng với phu nhân lẻn đi đến chổ quân của Tự Khánh; gặp khi trời đã sáng, phải nghĩ lại ở nhà tướng quân Lê Mịch ở huyện Yên Duyên, gặp tướng của Tự Khánh là Vương Lê đem binh thuyền đến đón. Vua mới đỗ lại ở bãi Cửu Liên. Truyền cho Tự Khánh đến chầu (...) Ất Dậu [1125] Chiêu Hoàng bèn trút bỏ áo ngự mời Trần Cảnh lên ngôi hoàng đế (...) Thái Tông hoàng đế, họ Trần tên húy là Cảnh, trước tên húy là Bồ, làm Chi hậu chính triều Lý, được Chiêu Hoàng nhường ngôi, ở ngôi 33 năm [1226-1258] nhường ngôi 19 năm, thọ 60 tuổi [1218-1277] băng ở cung Vạn Thọ, táng ở Chiêu Lăng (...) Vua là con thứ của Thừa, mẹ họ Lê, sinh ngày 16 tháng 6 năm Mậu Dần, Kiến Gia thứ 8 triều Lý (...) Bính Tuất [1226] Mùa đông tháng 10, tôn cha là Thừa làm Thượng hoàng, ở cung Phụ Thiên, phường Hạc Kiều phía bên tả. Hễ khi nước có việc lớn, thì ở trong đó xem xét, quyết định. Tôn mẹ là Lê thị làm Quốc Thánh hoàng thái hậu [có sách chép là Bảo Thánh Quốc mẫu] Canh Dần [1230 ] Tháng 9, Quốc Thánh hoàng thái hậu băng, truy tôn làm Thuận Từ hoàng thái hậu”.
- Theo như Toàn thư mục năm 1285 thì Ngô sử gia biết rằng: Bình Trọng vốn người họ Lê được ban quốc tính, ông và cha của Bảo Nghĩa vương làm quan dưới triều Trần Thái Tông, nhưng có vẻ như Ngô Sĩ Liên không biết tên ông và cha của Trần Bình Trọng. Toàn thư chép năm 1216, vua Lý Huệ Tông cùng phu nhân Trần thị, nhân ban đêm trốn từ cầu Tây Dương [Cầu Giấy] đến Thuận Lưu, giữa đường có nghỉ lại nhà tướng quân Lê Mịch ở huyện Yên Duyên [Hoàng Mai]
- Thứ nhất vợ chồng Huệ Tông nghỉ lại nhà tướng quân Lê Mịch, cho thấy Trần thị rất tin tưởng vị tướng quân ở huyện Yên Duyên. Thứ hai thuộc hạ của Trần Tự Khánh là Vương Lê biết vợ chồng Huệ Tông ở nhà Lê Mịch nên đã đem thuyền đến đón, như thế đã có người thông báo cho Tự Khánh biết để đến đón. Thứ ba vợ của Trần Thừa, cũng đồng thời là chị dâu của Kiến Quốc vương là người họ Lê. Do đó, tôi đặt giả thuyết: tướng quân Lê Mịch có mối quan hệ thân tộc với Quốc Thánh hoàng thái hậu.
- Theo như Toàn thư mục năm 980 thì thân phụ của Lê Đại Hành có họ tên là Lê Mịch, có họ tên trùng với tướng quân ở huyện Yên Duyên. Vì thế tôi đặt ra một kịch bản như sau: Bình Trọng vốn là người họ Lê, hậu duệ của tướng quân Lê Mịch ở huyện Yên Duyên, do vị tướng quân này có mối quan hệ thân tộc với Quốc Thánh hoàng thái hậu nên được phong vương hầu, ban quốc tính. Do tục kiêng húy và khoảng thời gian dài nên người đời đã đồng nhất hai ngài Lê Mịch với nhau, thành ra Trần Bình Trọng được kết nối với Lê Đại Hành hoàng đế, sau khi thao tác kết nối đã hoàn thành thì yếu tố Lê Mịch cũng biến mất, thành ra cuối cùng chúng ta có như Ngô sử gia chép: Bảo Nghĩa vương là hậu duệ của Lê Hoàn.
- Bảo Nghĩa vương lấy công chúa Thụy Bảo, là con gái của Thái Tông, như thế thân phụ của Bình Trọng rất có thể cùng hàng với Trần Cảnh và tổ phụ của Kiến Đức hầu cùng hàng với Thái Tổ và Quốc Thánh hoàng thái hậu. Toàn thư cho biết ông và cha của Trần Bình Trọng làm quan dưới triều Thái Tông [1225-1258] trong khi đó Lê Mịch tướng quân đã xuất hiện vào thời Lý. Trần Thừa sinh năm 1184 nên vào năm 1216 ngài 32 tuổi. Nếu Lê Mịch là thân phụ của Quốc Thánh phu nhân thì ngài khoảng 45 tuổi, vào năm 1225 ngài khoảng 55 tuổi.
3. Khóa hư lục chép: “"Năm mười sáu tuổi, Thái hậu đã chán cõi đời, Trẫm nằm rơm gối đất, khóc ra máu mắt, đau đớn nát lòng; ngoài nỗi đau buồn này, đâu rảnh nghĩ việc khác. Chỉ vài năm sau, Thái Tổ Hoàng đế cũng băng hà (…) Ta lòng riêng tự bảo trên đã không còn cha mẹ để tựa nương, dưới ngại chẳng xứng lòng dân mong đợi. Phải làm sao đây? Ta suy đi nghĩ lại, chi bằng lui về ở chốn núi rừng, tìm học Phật pháp để hiểu rõ việc lớn sanh tử, lấy đó đền đáp công ơn cha mẹ, chẳng hay hơn sao ? Thế là chí Trẫm đã quyết định. Đêm mùng ba tháng tư năm Bính Thân, niên hiệu Thiên Ứng Chính Bình thứ năm [1236] Trẫm đổi y phục đi ra khỏi cửa cung (…) tới sườn núi Yên Tử (...) tham kiến vị Đại Sa-môn Quốc sư Trúc Lâm. Quốc sư vừa thấy Trẫm mừng rỡ (…) Bấy giờ ông chú Trần Công - người em họ mà tiên quân gởi gắm đứa con côi, sau khi tiên quân bỏ thế gian và quần thần, Trẫm phong làm Thái sư tham dự quốc chánh - nghe tin Trẫm trốn đi, ông liền sai tả hữu đi mọi nơi dò tìm tung tích, rồi cùng người trong nước lên đến núi này. Gặp Trẫm, ông thống thiết nói: Thần nhận sự ủy thác của tiên quân, tôn Bệ hạ làm chúa thần dân. Lòng dân trông đợi ở Bệ hạ như con nhỏ mong đợi cha mẹ. Huống nữa, ngày nay các cố lão trong triều đều là bề tôi thân thuộc, dân chúng sĩ thứ ai cũng vui vẻ phục tùng. Cho đến đứa bé lên bảy cũng biết Bệ hạ là cha mẹ dân. Vả Thái Tổ bỏ thần mà đi, nắm đất trên mồ chưa khô, lời dặn dò còn vẳng bên tai. Mà nay Bệ hạ trốn lánh vào núi rừng, ẩn cư để mong thỏa mãn chí mình. Như thần nghĩ, Bệ hạ tính kế tự tu thì có thể được, còn quốc gia xã tắc thì sao ? Chỉ để lời dạy suông cho đời sau, chi bằng đem thân mình làm gương trước cho thiên hạ. Bệ hạ nếu không nghĩ lại, chúng thần cùng người trong thiên hạ đồng chết ngay hôm nay, quyết chí không trở về. Trẫm thấy Thái sư cùng các cố lão quần thần không có ý bỏ Trẫm, liền đem lời này tỏ bày với Quốc sư. Quốc sư cầm tay Trẫm bảo: Phàm làm đấng nhân quân, phải lấy ý muốn của thiên hạ làm ý muốn của mình, lấy tâm của thiên hạ làm tâm của mình. Nay thiên hạ muốn đón Bệ hạ trở về, Bệ hạ không về sao được. Song phần nghiên cứu nội điển, mong Bệ hạ đừng xao lãng. Vì thế, Trẫm cùng mọi người trở về kinh, miễn cưỡng lên ngôi. Khoảng hơn mười năm, những khi được rảnh rỗi, Trẫm tập họp các vị kỳ đức để tham cứu thiền (…) Trẫm (…) sai thợ viết chữ chân phương, ra lệnh khắc bản in. Chẳng những để chỉ đường mê cho hậu thế, mà còn muốn tiếp nối công lớn các bậc Thánh nhân đời trước. Vì thế tự làm lời tựa này" [Bản dịch của Thích Thanh Từ]
Toàn thư chép: “Giáp Ngọ [1234] Mùa xuân tháng giêng ngày 18, thượng hoàng băng ở cung Phụ Thiên, thọ 51 tuổi (...) Mùa thu tháng 8, Lấy thái úy [ Trần] Liễu làm phụ chính, sách phong làm Hiển Hoàng. Phong Trần Thủ Độ làm Thống quốc thái sư, tri Thanh Hóa phủ sự. Gia phong thái phó triều Lý là Phùng Tá Chu làm Hưng Nhân Vương; Quan nội hầu Phạm Kính Ân làm Thái phó, tước Bảo Trung quan nội hầu (...) Bính Thân [1236] Mùa xuân tháng giêng, định lệ cấp lương bổng cho các quan văn võ trong ngoài và các quan ở cung điện, năng miếu, chia tiền thuế, ban cấp theo thứ bậc. Tháng 2, định quan hàm cho các đại thần. Phàm người tôn thất vào chính phủ, hoặc là Thái sư, Thái phó, Thái bảo, Thái uý hoặc là Tư đồ, Tả Hữu tướng quốc, đều kiêm hàm Kiểm hiệu đặc tiến nghi đồng tam ty bình chương sự (...) Mùa hạ tháng 6, nước to vỡ tràn vào cung Lệ Thiên. Bấy giờ Hiển Hoàng [Trần] Liễu làm tri Thánh Từ cung, nhân nước to, đi thuyền vào chầu, thấy người phi cũ của triều Lý liền cưỡng dâm ở cung Lệ Thiên. Đình thân hặc tâu, vì thế mới đổi tên cung Thưởng Xuân, giáng Hiển làm Hoài Vương (...) Mùa đông tháng 10, Gia phong Hưng Nhân Vương Phùng Tá Chu làm Đại Vương; Quan nội hầu Phạm Kính Ân làm Thái úy, ban cho mũ áo đại vương (...) Đinh Dậu [ Thiên Ứng Chính Bình] năm thứ 6 [1237] Mùa xuân tháng giêng, lập công chúa Thuận Thiên họ Lý, là vợ của Hoài Vương Liễu, anh vua, làm hoàng hậu Thuận Thiên. Giáng Chiêu Thánh làm công chúa. Bấy giờ Chiêu Thánh không có con mà Thuận Thiên đã có mang Quốc Khang 3 tháng. Trần Thủ Độ và công chúa Thiên Cực bàn kính với vua là nên mạo nhận lấy để làm chổ dựa về sau, cho nên có lệnh ấy. Vì thế, Liễu họp quân ra sông Cái làm loạn. Vua trong lòng áy náy, ban đêm, ra khỏi kinh thành đến chỗ quốc sư Phù Vân (quốc sư là bạn cũ của Thái Tông) trên núi Yên Tử rồi ở lại đó”.
Thánh Đăng lục chép: “Vua Trần Thái Tông. là vua thứ hai đời Trần, con của Thái Tổ. Lên ngôi ngày mùng 10 tháng 12 năm Ất Dậu [1225] đổi niên hiệu Kiến Trung, thiên tư khác thường, thánh học cao minh, lại thêm rất lưu tâm nơi Phật giáo (…) Qua niên hiệu Thiên Ứng Chính Bình thứ năm [1236] tức tháng tư năm Bính Thân, nửa đêm Thái Tông vượt thành sang sông đi về hướng đông, thẳng lên chùa Vân Yên núi Yên Tử, vào tham kiến quốc sư Trúc Lâm Viên Chứng. Do đây vua càng dốc chí nơi Thiền học. Khi muôn việc rảnh rỗi thì nhóm họp các bậc kỳ túc thưa hỏi” [Đời Trần. Theo hòa thượng Thích Thanh Từ] 
- Rõ ràng có điểm rất giống nhau về sự kiện “ban đêm, Thái Tông đến tham bái quốc sư ở núi Yên Tử”. Toàn thư cho biết vị quốc sư đó tên là Phù Vân, trong khi Thánh Đăng lục cho biết vị quốc sư ấy tên là Viên Chứng. Giáo sư Nguyễn Lang trong Việt Nam phật giáo sử luận cho rằng rất có thể sách đã chép sai vì Phù Vân là hiệu của thiền sư Tĩnh Lự, thuộc thế hệ thứ 10 của thiền phái Trúc Lâm Yên Tử. Thiền sư Viên Chứng được nhiều nhà nghiên cứu đồng nhất với thiền sư Đạo Viên.
Thiền uyển tập anh chép: “Thiền sư Huyền Quang [???-1221] núi Yên Tử, người kinh sư, họ Lê tên Thuần (…) năm vừa 11 tuổi Thường Chiếu chùa Lục Tổ thấy đem về nuôi, cho làm đệ tử (…) sau vì nhận sự cúng dường của công chúa Hoa Dương [Việt sử lược chép: “Trinh Phù năm thứ 5 [1180] mùa đông, cho thủ lĩnh châu Vị Long là Hà Công Phụ cưới công chúa Hoa Dương] mà tiếng đời phỉ báng nổi lên như ong (…) Rồi sư vào thẳng trong núi Uyên Trừng, phủ Nghệ An, theo thiền sư Pháp Giới thọ giới cụ túc (…) Lý Huệ Tông khâm phục đời sống cao thượng của sư, đã nhiều lần sắm lễ đi đón, sư lánh mặt (…) Mùa xuân năm Kiến Gia thứ 11 [1221] sư an nhiên mà tịch, môn đồ Đại Viên sắm đủ lễ an táng sư trong núi”.
- Môn đồ Đại Viên chính là thiền sư Đạo Viên, là bạn cũ của Thái Tổ Trần Thừa và cũng chính là vị quốc sư ở núi Yên Tử mà ban đêm Trần Cảnh bỏ thành, vượt sông đến tham bái. Rõ ràng việc “bỏ thành, vượt sông” không đơn giản chỉ là “tham bái”. Như Toàn thư cho biết trước áp lực từ việc Trần Thủ Độ bàn kín chuyện cướp vợ, buộc người anh là Trần Liễu làm loạn đã khiến Thái Tông bỏ ngôi mà tham bái phật học. Toàn thư và Thánh Đăng lục còn chép sai khác vào thời điểm mà Trần Cảnh bỏ thành, vượt sông. Trong trường hợp này, tôi cho rằng sách gần với sự kiện hơn thì có giá trị hơn, do đó sự kiện Thái Tông nửa đêm, bỏ thành, vượt sông, cũng có nghĩa việc Trần Liễu làm loạn phải xảy ra vào tháng 4/1236.
- Theo Toàn thư thì Thái Tông Trần Cảnh sinh năm 1218, khi 16 tuổi mẹ của ngài là Lê thị mất, như thế Quốc Thánh hoàng thái hậu phải mất vào năm 1233, chứ không phải năm 1230. Theo Thiền uyển tập anh thì thiền sư Huyền Quang họ Lê người kinh sư, có môn đồ là Đại Viên, vốn là bạn cũ của Trần Thừa, trong khi vợ của Thái Tổ cũng người họ Lê và rất có thể có mối quan hệ thân tộc với vị tướng quân người kinh sư là Lê Mịch.
- Sách Khóa hư lục có chép chi tiết “em họ tiên quân được gửi gắm con côi (…) trẫm đã phong làm thái sư, tham dự quốc chính (…) Thần nhận sự ủy thác của Tiên quân, tôn phong bệ hạ làm chúa tể dân thần”. Rõ ràng là khi Trần Thừa còn sống, quyền lực trong triều do Thái Tổ nắm cả, tới khi mất thì có gửi gắm Trần Cảnh cho Trần Thủ Độ, Trung Vũ vương lúc này được phong Thống quốc thái sư, tham dự triều chính. Nhưng Trần Thái Tông cũng đồng thời phong cho anh trai Trần Liễu làm Hiển hoàng, các lão thần như Phùng Tá Chu làm Hưng Nhân vương, Phạm Kính Ân làm thái phó, tước Bảo Trung hầu. Thời điểm sau khi Thái Tổ băng, Trần Cảnh liên tục có những động thái vỗ về quan lại, mục đích hẳn là tìm kiếm sự trung thành.
- Trần Cảnh thì hẳn là hoàng đế từ khi Thái Tông còn sống, vậy thì sao Trần Thủ Độ lại còn nhận sự ủy thác, mà tôn phong bệ hạ làm chúa tể ? Phải chăng vào thời điểm đó, Trần Cảnh không có thực quyền và chịu lép vế trước Trần Liễu, do đó việc “tôn phong làm chúa tể” của Trần Thủ Độ như là một động thái khẳng định quyền thống trị của Thái Tông. Rõ ràng là với tước Hiển hoàng, Trần Liễu chỉ đứng sau hoàng đế về mặt danh nghĩa. Tôi cho rằng Trần Cảnh đứng trước tình trạng tiến thoài lưỡng nam, người có thể tin tưởng nhất là người anh trai Trần Liễu, người mà Thái Tông có thể cùng hợp sức chống lại các lão thần trong đó có cả Trần Thủ Độ, thế nhưng Trần Cảnh lại không có sự tin tưởng tuyệt đối với Hiển hoàng, để rồi vào năm 1237 khi Liễu tự lượng thế cô, đến chỗ vua xin hàng, Thủ Độ toan giết thì Thái Tông đã lấy người che cho Hiển hoàng, khiến Trung Vũ vương phải thốt lên “Ta chỉ là con chó săn thôi, biết đâu anh em các người thuận nghịch thế nào”. Đúng là như vậy, tình thế của Trần Thái Tông là không thể tin hẳn, nhưng nếu không tin thì chẳng còn biết tin ai.
- Lại nói về việc Trần Liễu cưỡng dâm người phi cũ của triều Lý ở cung Lệ Thiên, khiên các đình thân hặc tấu nên buộc phải giáng Hiển hoàng làm Hoài vương. Với tước Hiển hoàng thì hẳn người tấu kể tội Trần Liễu mà buộc Trần Thái Tông phải giáng Liễu làm Hoài vương thì người đó cũng không phải tầm thường. Chúng ta biết rằng nhánh An Quốc vương và Trung Vũ vương có mối quan hệ với rất nhiều người là tôn thất họ Lý cũ, do đó mà tôi ngờ rằng người phi cũ này có mối quan hệ với nhánh Trần Thẩm, Trần Thủ Độ, nhưng chính xác mối quan hệ đó như thế nào thì chúng ta sẽ bàn sau. Tôi cho rằng sự biến những năm 1236 mà các sự kiện như Trần Liễu cưỡng dâm người phi cũ của triều Lý hoặc Trần Thủ Độ bàn với Trần Cảnh cướp vợ của Hiển hoàng, chẳng qua là những nút thắt mà thôi, chứ ẩn đằng sau là việc quyền lực tập trung [khi Trần Thừa còn sống] bị phân tách cho từng thế lực [Trần Liễu, Trần Thủ Độ]
4. Toàn thư chép: “Bính Tý [1276] Mùa thu tháng 9 ngày 17, hoàng trưởng tôn Thuyên sinh, lập làm hoàng thái tôn, ít lâu sau lập làm Đông cung hoàng thái tử (...) Canh Tý [1300] Mùa thu tháng 8 (…) hoàng tử Mạnh sinh. Bấy giờ, các hoàng tử đều không nuôi được, đến khi Mạnh sinh, vua nhờ công chúa Thụy Bảo [tức là cô của Nhân Tông] nuôi hộ. Nhưng công chúa cho là bấy giờ bà đương có vận hạn, lại nhờ Nhật Duật nuôi [Nhật Duật là anh công chúa Thụy Bảo] Giáp Dần [1314] vua nhường ngôi cho hoàng thái tử Mạnh (…) con thứ tư của Anh Tông, mẹ đích là Thuận Thánh Bảo Từ hoàng thái hậu Trần thị, con gái của Hưng Nhượng Đại Vương Quốc Tảng, mẹ sinh là Chiêu Hiến hoàng thái hậu Trần thị, con gái của Bảo Nghĩa Vương Bình Trọng”.

Chủ Nhật, 11 tháng 3, 2018

TRẦN TRIỀU NHÂN VẬT: TRUNG THÀNH VƯƠNG



(1) Đoàn Văn Lôi
Việt sử lược chép: “Mậu Dần [1218] Tháng mạnh hạ (…) Đức Thái tổ và Thái úy gả em gái là Trần tam nương Hồng hầu Đoàn Văn Lôi. Văn Lôi là người dũng cảm, có mưu lược, được lòng dân nên người Hồng theo rất đông”.
Việt sử lược chép: “Đinh Mão [1207] Mùa thu tháng 8, Đoàn Thượng, Đoàn Chủ làm phản (…) Kỷ Tị [1209] Phạm Bỉnh Di lại đánh bọn người Hồng là Thượng, Chủ ở Vệ kiều, người Hồng tan vỡ, Chủ bị hãm ở trong bùn, bị Hà Văn Lôi đâm chết (…) Tân Mùi [1211] Mùa thu tháng 7, người Hồng là Đoàn Thượng, Đoàn Ma Lôi đem binh về kinh, vua xuống chiếu cho Thượng lên tước hầu (…) Quý Dậu [1213] Mùa xuân tháng giêng, vua sai vương tước thái úy ở dinh Thượng Khối là Dĩ Mông và Hồng hầu Đoàn Thượng đều tới hội, vua sai Thượng và Dĩ Mông đi đánh Tự Khánh (…) Giáp Tuất [1214] Tháng giêng (…) Thủ Độ giữ Lãng Ải (…) gặp binh của người Hồng là Đoàn Thượng, Đoàn Văn Lôi, Đoàn Khả Như liền đánh chúng, người Hồng thua chạy (…) Bính Tí [1216] Tháng 5 (…) Vua cùng phu nhân Trần thị ban đêm đi Thuận Lưu theo Tự Khánh (…) từ đó vua cùng Tự Khánh quyết ý đánh bọn Bắc Giang vương Nộn, Hiển Tín vương Bát, người Hồng Đoàn Văn Lôi, Hà Cao ở Quy Hóa (…) Đinh Sửu [1217] Mùa hạ tháng 4 (…) Nộn (…) đánh Ải đạo, gặp quân thái úy, giao chiến, quân Nộn tan vỡ (…) tháng trọng hạ, người Hồng là Đoàn Thượng cùng binh chúng ra hàng, vua phong Thượng tước vương”.
Toàn thư chép: “Nhâm Thân [1212] Mùa xuân tháng 2, sai người cùng một vú nuôi là Đoàn Thượng chiêu mộ dân châu Hồng đi bắt giặc cướp. Bấy giờ thế nước suy yếu, triều đình không có chính sách hay, đói kém luôn luôn, nhân dân cùng khốn [Đoàn] Thượng thừa thế tự tiện làm oai làm phúc, không ai dám nói gì. Sau tội trạng tỏ rõ, bị các quan hặc, phải giam vào ngục để hỏi tội. Thượng mới rút gươm, cởi trần chạy về châu Hồng, nhóm họp bè đảng, đắp thành xưng vương, cướp bóc lương dân, triều đình không thể ngăn được (...) Bính Tuất [1226] Tháng 2 (...) Sai Trần Thủ Độ đem quân đi đánh Nguyễn Nộn, Đoàn Thượng và các man (...) Bấy giờ Nộn và Thượng binh thế còn mạnh, chưa dễ hàng phục được, mới phong cho Nộn làm Hoài Đạo Vương, chia cho các huyện Bắc Giang Thượng, Bắc Giang Hạ, Đông Ngạn cũng hẹn phong làm vương cho Thượng định ngày đến thề, nhưng Thượng không đến (...) Mậu Tý [1228] Tháng 12, Nguyễn Nộn đánh giết Đoàn Thượng. Nộn đã phá được Thượng, nhân gộp cả quân của Thượng, cướp bắt con trai, con gái, tài sản, trâu ngựa đất Hồng Châu. Con của Thượng là Văn đem gia thuộc đến hàng”.
Ngọc phả về Đông Hải đại vương viết: “Khi Cao Tôn băng hà, thái tử lên làm vua, gọi là Lý Huệ Tôn. Vua nghĩ trước cùng một nhũ mẫu với Đoàn Thượng, tức thì phong cho Đoàn Thượng chức Sơn Nam Đạo Trưởng (…) Vua tức vị được mười bốn năm nhưng không có con trai, duy chỉ có một người con gái tên là Thuận Thiên Công chúa. Vua lập Thuận Thiên Công chúa làm Thái tử và xuất gia tại chùa Hữu Thuyên, thường gọi là chùa Đăng Sơn. Phật Kim được ngôi vua từ cha, liền cải thành Lý Chiêu Hoàng tại vị được hai năm, thì Thừa tướng Trần Thủ Độ dùng mưu khiến cho Lý Chiêu Hoàng truyền thần khí cho Trần Cảnh, chiếm lấy thiên hạ, Trần Cảnh làm vua gọi là Thái Tôn, đại quyền trong thiên hạ chuyển hết về tay nhà Trần, chú của Trần Thái Tôn là Trần Thủ Độ chuyên lộng quyền hành (...) Đoàn Thượng bất bình (…) rồi ông bán hết gia sản, tiền của đưa vợ con về quê, ông  về  Đường Hào, tụ tập quần đảng, quay về hướng Đông xưng làm Đông Hải Vương, lập con trai Đoàn Văn làm thái tử (...) Nhà Trần xử hòa với Nguyễn Nộn, phong Nguyễn Nộn làm Hoài Đạo Vũ Vương, rồi cử Nguyễn Nộn đi dẹp Đoàn Thượng (...) nhưng không thắng, đành phải hứa hẹn phong tước cho ông, định ngày hội họp, làm lễ minh thệ, nhưng Đoàn Thượng không đến (...) Về sau, nhà Trần ngầm giao ước cùng Nguyễn Nộn mưu hẹn gặp 3 bên ở xứ Đồng Đao để làm lễ minh thệ. Đoàn Thượng sơ suất cả tin, quần thần can gián, nhưng ông không nghe, vô tình y hẹn, đến xứ Đồng Đao dự lễ minh thệ. Ông mắc phải mưu gian, Trần Thủ Độ và Nguyễn Nộn đã bố trận phục sẵn, ông bị quân của Nguyễn Nộn tiêu diệt”. 
- Cũng giống như trường hợp của Bắc Giang vương Nguyễn Nộn mà tôi đã trình bày trong bài Bàn về Nguyễn Nộn và công chúa Ngoạn Thiềm, xung quanh vị Hồng vương Đoàn Thượng có rất nhiều các truyền thuyết liên quan, mà trên tôi có dẫn một trường hợp. Phần nhiều những ngọc phả và thần tích [dưới hình thức văn bản] liên quan tới vị Đông Hải đại vương đều được soạn sau Toàn thư, nhưng chúng ta có thể chắc chắn một điều là trước khi truyền thuyết về Đoàn Thượng được cố định dưới hình thức văn bản thì nó đã được truyển khẩu. Như trong trường hợp mà tôi có đưa ra thì việc cho rằng Thuận Thiên công chúa là Lý Chiêu Hoàng cho thấy [một vài chứ không phải toàn bộ] nguồn tài liệu dùng để soạn Ngọc phả, thần tích và nguồn tài liệu dùng để soạn Toàn thư đã không tham chiếu lẫn nhau.
- Cả Toàn thư và Ngọc phả đều chép về người con trai của Hồng vương Đoàn Thượng họ tên là Đoàn Văn. Tôi đặt giả thuyết rằng: người con trai của Đoàn Thượng họ tên đúng là Đoàn Văn Lôi như ghi chép của Việt sử lược, nhưng do kiêng gọi tên húy nên dân gian đã bỏ tên Lôi, đồng thời nếu chỉ gọi là Đoàn tướng quân thì sợ lẫn với Đoàn Thượng nên thành ra để lại tên Văn làm phân biệt. Dùng lâu, quen dần thành truyền thống.
- Căn cứ cho giả thuyết mà tôi có thể đưa ra nằm trong Việt sử lược. Năm 1211 Đoàn Thượng và Đoàn Ma Lôi dẫn quân về kinh thành, Thượng được ban tước hầu, sự kiện Lý Huệ Tông triệu Đàm Dĩ Mông và Đoàn Thượng về kinh sử để cùng hội binh đánh Trần Tự Khánh cho chúng ta biết tên hiệu của tước hầu mà Thượng được ban là Hồng, đến năm 1217 Đoàn Thượng ra hàng triều đình và được tấn phong tước vương, có lẽ hiệu vẫn là Hồng. Năm 1218 Đoàn Văn Lôi đã là Hồng hầu, nói cách khác, Văn Lôi được kế thừa tước hầu khi Thượng được tiến phong tước vương. Sự kiện cho thấy Văn Lôi cũng mới nhận tước hầu, đó là vào năm 1216 khi chép về Đoàn Văn Lôi, Việt sử lược chỉ chép là “người Hồng Đoàn Văn Lôi”. Bằng chứng khác, khi Thượng ra hàng và được thăng tước vương cho thấy thế lực của Đoàn Thượng có rất mạnh, theo ghi chép của Việt sử lược thì Đoàn Văn Lôi là người dũng cảm, có mưu lược, được người vùng Hồng theo rất đông, hơn thế nữa họ Trần lại gả Trần tam nương cho Lôi, thì rõ là Đoàn Văn Lôi cũng rất thế lực. Nên tôi cho rằng: Đoàn Văn trong Toàn thư, Ngọc phả là Đoàn Văn Lôi trong Việt sử lược.
(2) Nguyễn Bát
Việt sử lược chép: “Giáp Tuất [1214] Tháng 6 (…) Vua cùng Thái hậu từ Nam Sách trở về (…) Đại Nội. Thái hậu mật chiếu cho tướng quân Phù Lạc là Phan Thế dụ Ô Kim hầu là Nguyễn Bát giết đi (…) Tháng 8, Bắc Giang hầu Nguyễn Nộn đánh Ô Kim hầu Bát ở cầu Tây Dương (…) Bính Tí [1216] Tháng 3 (…) Vua sai người bắt kẻ cướp ở ngõ Cơ Xá, bị tướng Cào là Đỗ Ất đánh. Vua sai triệu Ất đến, Ất không nghe, vua sai Hiển Tín vương Bát dẹp Ất (…) Tháng 5, tướng Cảo là Đỗ Nhuế đánh vua (…) vua ra trại Ngoài, nhân sai người đến xin quân của Tự Khánh để dẹp Nhuế. Nhuế chạy đến với Nộn (…) đày liệt hầu Đỗ Nhuế làm Khao Giáp (…) Vua cùng phu nhân Trần thị ban đêm đi Thuận Lưu theo Tự Khánh (…) Lúc bấy giờ, thái hậu và vương tử, công chúa đều trốn ở Ô Kim (…) Hiển Tín vương Nguyễn Bát ra hàng (…) Mùa thu tháng 8, Hiển Tín vương làm phản, đem binh phá ấp Hợp, tướng là Đỗ Tế chạy về Đan Phượng (…) Đinh Sửu [1217] Tháng trọng hạ, thái úy lại đem quân đánh Hiển Tín vương Bát, thắng được. Bát chạy lên sách An Lạc”.
Bài Nhà Trần khởi nghiệp của tác giả Trần Việt Bắc viết: “17. Người viết chưa tra cứu được An Nhân Vương là ai, họ hàng như thế nào với vua Huệ Tông. ĐVSKTT ghi lại tên hai người con trai của vua Cao Tông là thái tử Sảm và hoàng tử Thầm, con trai vua Anh Tông thì chỉ có tên của hai người được ghi lại là Long Xưởng và Long Trát (Cao Tông). Tuy nhiên ĐVSL đưa ra khá nhiều tên các vị Vương nhà Lý như  Hiển Tín Vương Lý Bát (ĐVSL gọi là Nguyễn  Bát), Huệ Văn Vương (con vua Anh Tông, chú vua Huệ Tông), Nghĩa Tín Vương, Nhân Quốc Vương”.
- Theo như tác giả Trần Việt Bắc thì vị Hiển Tín vương Nguyễn Bát được ghi chép trong sách Việt sử lược là tôn thất họ Lý. Trong Ghi chú số 8, tác giả của Nhà Trần khởi nghiệp cho rằng “thái hậu họ Đàm (…) có lẽ muốn tiêu diệt hết tông thất của họ Lý” khi viết về việc Đàm thái hậu mật sai Phan Thế giết Nguyễn Bát. Trước hết, việc cho rằng Bát họ Lý không phải không có cơ sở. Vì thời Trần vốn kiêng húy chữ Lý nên chiếu lệnh đổi họ Lý sang họ Nguyễn, lại thêm Nguyễn Bát được ban tước vương. Nhưng chính việc Bát được tấn phong Hiển Tín vương vào khoảng năm 1214 cho thấy mục đích của Đàm thái hậu không phải là tiêu diệt hết tông thất của họ Lý và ngoài Nguyễn Bát còn có Huệ Văn vương, Nghĩa Tín vương đều ở kinh thành. Nên việc Đàm thái hậu sai tướng quân Phù Lạc là Phan Thế dụ giết Ô Kim hầu Nguyễn Bát có thể là do Hiển Tín vương chống lại triều đình.
- Vào tháng 1/1213 trong khi bị Trần Tự Khánh giam tại hoàng cung, Đàm thái hậu ngầm sai Vương Thường với Phan Thế, Ngô Nãi tới giải cứu, kế hoạch thành công, Tự Khánh buộc phải rút về giữ bến Đại Thông, đồng thời thả Doãn Tín Dực để làm hòa với Huệ Tông, nhưng không đạt nên tháng 1/1214 Trần Tự Khánh tổ chức cuộc tấn công vào kinh thành buộc Hạo Sảm chạy về Nam Sách với Đoàn Thượng, do không có được Huệ Tông nên Tự Khánh đã lập Huệ Văn vương làm hoàng đế. Tháng 6/1214 Nguyễn Nộn làm phản, liên kết với Nghĩa Tín vương ngầm tấn công kinh thành, Tự Khánh buộc phải lui về giữ bến Đại Thông. Lấy được kinh thành, Nộn rước Huệ Tông, Đàm thái hậu còn ngờ Nộn nên khi về tới Thái Thất thì ngự ở đó, đồng thời phong Nộn tước hậu hiệu Bắc Giang. Sau vài ngày mới trở về Đại Nội, rồi mật chiếu cho Phan Thế dụ Nguyễn Bát để giết.
- Theo ghi chép của Việt sử lược chép rằng: tháng 8/1214 Bắc Giang hầu Nguyễn Nộn đánh Ô Kim hầu Nguyễn Bát ở cầu Tây Dương thì Ô Kim hầu đóng quân ở cầu Tây Dương và Nguyễn Nộn chủ động đem quân đánh Nguyễn Bát. Cùng trong tháng 8/1214 Tự Khánh sai Đàm Bật về kinh thành lấy danh nghĩa là dâng thổ vật nhưng kỳ thực là thăm dò tình hình, nên tháng 9/1214 Tự Khánh sai Nguyễn Ngạnh đưa Đàm Kinh Bang về kinh sư, đề phòng mục đích trả Đàm Kinh Bang là giả mà muốn bắt Huệ Tông là thật nên vua Lý đã lánh đến nhà Doàn Bá ở ngõ Phiên Cầm. Âm mưu của Tự Khánh bị phá, Khánh liền mật sai tả phụ Nguyễn Chính Lại [Người nhận chức tham tri chính sau khi cùng với Trần Lý tôn Hạo Sảm làm hoàng đế năm 1209, cũng là người can gián Trần Thừa không nên nhận ủy thác ngôi vương của Huệ Tông năm 1225] lấy khí giới ở Vũ Khố, Huệ Tông phát hiện ra nên có lệnh chiếu bắt, Chính Lại sợ nên chạy đi Bắc Giang [Người viết không giải thích được vì sao Chính Lại chạy đến Bắc Giang, nếu do Lại liên kết với Tự Khánh thì phải chạy về Đại Thông mới đúng]
- Tuy vậy tôi vẫn cho rằng Chính Lại liên kết với Tự Khánh bởi ngay sau khi Lại lấy vũ khí ở Vũ Khố thì Tự Khánh dẫn binh xâm phạm cửa khuyết, Huệ Tông liền hội họp binh để chống, nhưng bị Tự Khánh đánh bật khỏi hoàng cung, sau Khánh rút, vua trở lại thì kinh thành đã tan hoang. Tháng 1/1215 vua xuống chiếu đánh Trần Tự Khánh, Nguyễn Nộn nhận mệnh dẫn cánh quân tiến về hướng Cửu Cao [tác giả Trần Quốc Vượng xác định thuộc vùng Hưng Yên] buộc Tự Khánh phải đem quân tới chống giữ.
- Vào tháng 3/1216 Huệ Tông ở nhà nội kí ban Đỗ An tại ngõ Chỉ Tác nơi cầu Tây Dương sai người bắt cướp ở ngõ Cơ Xá bị tướng Cào là Đỗ Ất đánh, sau vua sai Hiển Tín vương Nguyễn Bát đem quân tới đánh cũng không thắng. Trước hết việc Nguyễn Nộn đem quân đánh dẹp Nguyễn Bát vào tháng 8/1214 đã đạt được kết quả như mong đợi, sau cùng việc Bát được tấn phong từ tước hầu lên tước vương, cho chúng ta biết, rất có thể khi Nộn dẫn quân đến, Bát ra hàng.
- Vào tháng 5/1216 tướng Cảo là Đỗ Nhuế đánh Huệ Tông [tại cầu Tây Dương] cầm cự được vài ngày thì vua buộc phải cùng phu nhân rời ra trại Ngoài, đồng thời xin cứu viện của Tự Khánh, còn Đàm thái hậu cùng các vương tử công chúa thì được Nguyễn Bát đưa về Ô Kim [Hoài Đức] Tự Khánh dẫn quân đánh Đỗ Nhuế đồng thời sai Vương Lê đón vợ chồng Huệ Tông. Đỗ Nhuế chạy đến với Nộn, người viết không biết được vì sao Nhuế lại chạy về với Nộn, chỉ đoán rằng: Nhuế thân cô thế cô, lại bị Tự Khánh đánh mà Bắc Giang hầu là đối trọng của Khánh nên Nhuế chạy về với Nộn. Hiển Tín vương Bát có được Đàm thái hậu và các vương tử công chúa nhưng trước từng ra hàng Nguyễn Nộn nên cuối cùng đưa Đàm thái hậu về An Xướng, từ đây Nguyễn Nộn và Hà Cao lấy mệnh của thái hậu đánh các ấp ở Từ Liêm.
- Nguyễn Bát giữ tước hầu, như thế ngài rất khó có thể là con của các vị vua, mà khả năng cao là con của các vị vương. Xét thời Lý Anh Tông có vị hoàng tử Lý Long Xưởng rất có thế lực. Theo Việt sử lược thì Long Xưởng được ban Bảo Quốc vương, theo Toàn thư thì Long Xương được phong Hiển Trung vương. Trong bài Lý triều tân biên: Anh Tông hoàng đế tôi cho rằng: Long Xưởng là con của Lý Anh Tông với Chiêu Linh thái hậu người họ Nguyễn thuộc mạn Hà Tây. Theo Toàn thư Long Xưởng sinh năm 1151, năm 1181 ngài cầm đầu đám gia nô, mưu tính làm loạn. Gia thế họ Nguyễn của Chiêu Linh thái hậu cũng rất mạnh nên tôi cho rằng: rất có thể Ô Kim hầu Lý Bát là hậu duệ của Bảo Quốc vương Lý Long Xưởng.
Bài Hà Nội có thành Ô Diên của tác giả Nguyễn Vinh Phúc viết: “Cả hai bộ sử cổ của nước ta đều khẳng định có tòa thành Ô Diên ở làng Hạ Mỗ nay thuộc huyện Đan Phượng và là nơi đóng quân của Lý Phật Tử trong cuộc chiến chống Triệu Việt Vương (…) Theo Thần tích làng Chu Quyến hiện có ở thư viện Hán Nôm thì Nhã Lang là con trưởng của Phật Tử với bà thứ phi Lã Thị Ngọc Thành, người làng Chu Quyến (…) Bát Lang, theo Thần tích làng Hạ Mỗ mà cụ Bùi Tất Uông, người giỏi chữ Hán nhất làng Hạ Mỗ dịch từ 1984: Thần là con thứ 8 của Phật Tử với bà phi tần tên là Liễu Nương, con gái ông Đoạn Công quê ở làng Mao Điền, phủ Thượng Hồng, trấn Hải Dương (…) Xét trong các bộ sử thì sau khi Phật Tử phá được Triệu Việt Vương thì lấy Cổ Loa làm kinh đô, còn Ô Diên thì giao cho Lý Phổ Đỉnh. Vậy phải chăng Lý Phổ Đỉnh đó là tên thực của Bát Lang ? Chỉ xin nêu làm giả thuyết”.
Trang http://360.hncity.org viết: “Đình Lạc Thị thờ Tô Hiến Thành (1102-1179) nguyên thái úy phụ chính của Lý Cao Tông lúc vua còn nhỏ tuổi. Ngài quê làng Hạ Mỗ trấn Sơn Tây (…) vợ là bà Lã Thị Dung, người làng Lạc Thị. Cả hai vợ chồng sau khi mất đã được dân làng tôn thờ làm thành hoàng, ngày giỗ trở thành ngày hội đình làng”.
- Theo như tác giả Nguyễn Vinh Phúc thì tại làng Hạ Mỗ có thờ ngài Lý Bát Lang là con trai thứ 8 của Lý Nam Đế [Bát Lang và Nhã Lang là 2 vị hoàng tử khác nhau] Sau khi hoàng tử Bát Lang mất, vua cha Lý Nam Đế đã cho đắp mộ tại thành Ô Diên. Tác giả Nguyễn Vinh Phúc cũng cho rằng Lý Bát Lang không phải là tên riêng và rất có thể họ tên đúng của Lý Bát Lang là Lý Phổ Đỉnh.
- Tôi đặt giả thuyết khác: tháng 6/1214 Đàm thái hậu mật dụ cho Phan Thế dụ giết Ô Kim hầu Nguyễn Bát, nhưng kế hoạch bất thành. Đất Ô Kim nay thuộc huyện Hoài Đức. Đến tháng 8/1214 Bắc Giang hầu Nguyễn Nộn đánh Ô Kim hầu Nguyễn Bát ở cầu Tây Dương [Cầu Giấy] thắng được, như thế rõ là dải đất từ Ô Kim tới Tây Dương đều do Nguyễn Bát quản lý, mà đất Ô Diên nằm trong khu vực từ Ô Kim tới Tây Dương. Nói cách khác đất Ô Diên do Hiển Tín vương Nguyễn Bát quản lý.
- Trên tôi có dẫn tác giả Trần Việt Bắc cho rằng Hiển Tín vương người họ Lý, tôi cũng cho rằng Ô Kim hầu họ tên đúng là Lý Bát và như tác giả Nguyễn Vinh Phúc cho rằng Lý Bát Lang không phải tên riêng, thật vậy những tên chung như: lang, công, nương thường được thêm vào tên riêng và khi chúng ta bỏ tên chung ra thì vị hoàng tử được thờ tại Hạ Mỗ lại có cùng tên với Hiến Tín vương Lý Bát. Chắc không phải là ngẫu nhiên ? Trên tôi còn đặt giả thuyết ngài Lý Bát là hậu duệ của Bảo Quốc vương Lý Long Xưởng.
- Làng Hạ Mỗ ngoài thờ Lý Bát Lang thì còn thờ nhận vật lịch sử Tô Hiến Thành và trong bài Lý triều tân biên: Anh Tông hoàng đế tôi có đặt giả thuyết Chiêu Linh thái hậu người họ Nguyễn, trong khi Thiền uyển tập anh cho chúng ta biết Tô Hiến Thành có người cậu là thiền sư Trí Bảo người họ Nguyễn. Như vậy rất có thể Tô Hiến Thành có mối quan hệ với Chiêu Linh thái hậu nhưng như thế xuất hiện nghi vấn khác, đó là vì sao Tô Hiến Thành không ủng hộ con trai của Chiêu Linh thái hậu là hoàng tử Lý Long Xưởng mà lại phù con trai của Đỗ thái hậu là hoảng tử Lý Long Trát. Tôi cho rằng: tuy có mối quan hệ với Lý Long Xưởng thông qua người cậu, nhưng Tô Hiến Thành cũng có mối quan hệ trực tiếp với Đỗ thái hậu thông qua cuộc hôn nhân giữa người chị em gái là Tô thị với chú của thái hậu là Đỗ Anh Vũ.
- Làng Lạc Thị, huyện Thanh Trì có thờ Tô thái úy với người vợ của ông là bà Lã Thị Dung [người làng Lạc Thị] Việt sử lược mục năm 1175 có chép sự kiện Chiêu Linh thái hậu hối lộ người vợ lẽ của Tô thái úy là Lã thị, mong rằng Hiến Thành sẽ ủng hộ hoàng tử Lý Long Xưởng. Người vợ lẽ họ Lã của Tô thái úy có lẽ là bà Lã Thị Dung người làng Lạc thị chăng ? Nhưng vì sao Chiêu Linh thái hậu lại hối lộ bà vợ lẽ Lã thị này ? Tôi cho rằng có thể là do Chiêu Linh thái hậu và Lã thị cùng quê hương bản quán chăng [Cùng ở mạn Hà Tây] cũng không loại trừ họ Lã và họ Nguyễn có quan hệ thông gia.
- Cuối cùng, Ô Kim hầu Lý Bát được ghi chép lần đầu vào tháng 6/1214, nhưng đó lại là sự kiện Đàm thái hậu sai Phan Thế dụ giết Lý Bát, như thế rõ rằng Lý Bát phải chống lại triều đình từ trước năm 1214. Nhưng chính xác là từ thời điểm nào ? Toàn thư mục năm 1181 thái tử Long Xưởng cầm đầu đám gia nô làm loạn. Tôi đang nghĩ đến khả năng, ngay từ những năm 1181 thái tử Long Xưởng đã chiếm giữ được vùng đất Ô Kim, ngoài mặt thì thuần phục triều đình nhưng bên trong thì luôn ngấm ngầm mưu loạn và những sự biến cuối triều Lý là thời điểm cho dòng Lý Long Xưởng tham gia chính trường.
(3) Trung Thành vương
Toàn thư chép: “Tân Hợi [1251] Gả trưởng công chúa Thiên Thành cho Trung Thành Vương (không rõ tên). Con trai Yên Sinh Vương là Quốc Tuấn cướp lấy. Công chúa về với Quốc Tuấn. Ngày 15 tháng [2] vua mở hội lớn 7 ngày đêm, bày các tranh về lễ kết tóc và nhiều trò chơi cho người trong triều ngoài nội đến xem, ý muốn cho công chúa Thiên Thành là lễ kết tóc với Trung Thành Vương. Trước đó, vua cho công chúa Thiên Thành đến ở trong dinh Nhân Đạo Vương (Nhân Đạo Vương là cha Trung Thành Vương). Quốc Tuấn muốn lấy công chúa Thiên Thành, nhưng không làm thế nào được, mới nhân ban đêm lẻn vào chỗ ở của công chúa thông dâm với nàng. Công chúa Thuỵ Bà (chị ruột của Thái Tông, cô của Quốc Tuấn, nuôi Quốc Tuấn làm con) liền đến gõ cửa điện cáo cấp. Người coi cửa vội vào tâu. Vua hỏi có việc gì, Thuỵ Bà trả lời: “Không ngờ Quốc Tuấn ngông cuồng càn rỡ, đang đêm lẻn vào chỗ Thiên Thành, Nhân Đạo đã bắt giữ hắn rồi, e sẽ bị hại, xin bệ hạ rủ lòng thương, sai người đến cứu”. Vua vội sai nội nhân đến dinh Nhân Đạo Vương. Đến nơi, thấy yên lặng, bèn vào chỗ Thiên Thành, thì thấy Quốc Tuấn đã ở đấy. Nhân Đạo bấy giờ mới biết chuyện. Hôm sau, Thuỵ Bà dâng 10 mâm vàng sống, tâu rằng: “Vì vội vàng nên không sắm được đủ lễ vật”. Vua bắt đắc dĩ phải gả công chúa Thiên Thành cho Quốc Tuấn, lấy 2000 khoảnh ruộng ở phủ Ứng Thiên để hoàn lại sính vật cho Trung Thành Vương.
Sử thần Ngô Sĩ Liên nói: Con gái vua lấy kẻ bề dưới tất phải sai chư hầu cùng họ đứng ra làm chủ hôn theo lễ phải thế. Thái Tông đem Thiên Thành công chúa gả xuống cho Trung Thành Vương, nhưng công chúa lại về với Hưng Đạo Vương, việc hôn nhân rất là bất chính. Thế thì lễ cưới này không ai đứng chủ ư ? Vì vua đã bất chính trong đạo vợ chồng, cho người làm tôi con cũng bắt chước. Vả lại, hôn nhân không lấy người khác họ mà lấy người cùng họ, thì chỉ có nhà Trần làm thế. Trong việc trái lễ, lại trái lễ nữa”.
- Qua lời bình của Ngô sử gia, chúng ta biết rằng con gái vua lấy kẻ bề dưới tất phải có chư hầu cùng họ đứng ra làm chủ hôn và Ngô sử gia đã phải đặt nghi vấn rằng lễ cưới không ai đứng chủ ư ? Nhưng lễ mà tác giả của Toàn thư nhắc đến là lễ thời Lê, còn thời Trần thì không rõ ra sao ? Theo tục lệ thì khi công chúa hạ giá thường gồm: Lễ nạp thái và vấn danh; Lễ nạp trưng và nạp cát; Lễ điện nhạn và thân nghinh. Không chỉ riêng với công chúa mà đối với dân thường thì lễ đưa con gái về nhà chồng thường là lễ kết thúc cưới hỏi. Thế nhưng như Toàn thư chép thì công chúa Thiên Thành được đưa về nhà chồng trước cả lễ kết tóc, có khi nào lễ cưới hỏi thời nhà Trần khác với thời nhà Lê ? Nhưng có một điều mà chúng ta có thể chắc chắn rằng, với vị thế là con gái đầu của Trần Thái Tông [xin xem bài Bàn về người thân của Trần Quốc Tuấn] hẳn là lễ cưới của công chúa Thiên Thành phải có đầy đủ sự cao quý vào thời đại nàng sống, bằng chứng là vua cha cho mở hội 7 ngày đêm.
- Theo tục truyền thì Trần Quốc Tuấn và Thiên Thành công chúa là thanh mai trúc mã, quen biết từ nhỏ, nếu 2 người đã có ý với nhau thì vì sao Thụy Bà công chúa rồi cả Yên Sinh vương Trần Liễu không xin cho kết đôi. Trần Thái Tông cũng không phải người vô tâm ? Thái Tông không thể nào không biết, mà giả nếu có biết nhưng vẫn gả Thiên Thành cho Trung Thành vương thì vì sao Quốc Tuấn không lén vào cung mà thông dâm với nàng, lại phải đợi tới khi nàng được đưa tới phủ của Nhân Đạo vương mới lẻn vào. Có sự khác nhau rất lớn giữa việc thông dâm trước và sau. Nếu như thông dâm trước thì Nhân Đạo vương không quá mất mặt và dễ dàng thực hiện hơn, chỉ cần Thiên Thành xin đến thăm Thụy Bà công chúa là mọi việc đã thành, trong khi việc lẻn vào phủ của Nhân Đạo vương sẽ khó khăn hơn và sẽ nguy hiểm tới tính mạng hơn.
- Xem lời tấu của Thụy Bà công chúa rằng: Nhân Đạo đã bắt giữ, sợ ảnh hưởng tính mạng nhưng khi lính của nhà vua tới thì người trong phủ Nhân Đạo vẫn chưa biết. Như thế hoặc là Thụy Bà cố tình nói dối vua, làm cho sự việc gấp gáp, buộc vua phải sai quân tức tốc tới phủ hoặc Thụy Bà cũng không biết tình thế lúc ấy. Thêm sự việc Thụy Bà dâng 10 mâm vàng sống vào ngày hôm sau và tấu rằng: do gấp nên không chuẩn bị kịp thì xem ra đúng là Thụy Bà không biết kế hoạch của Quốc Tuấn. Sự việc Quốc Tuấn nhân ban đêm lẻ vào phủ Nhân Đạo có lẽ đúng như Toàn thư nhận định “không làm thế nào được”. Ý rằng Quốc Tuấn liều lĩnh mà thôi, chứ không có kế hoạch nào cả.
- Về mặt thời gian thì theo như Toàn thư chép thời điểm Thụy Bà dâng 10 mâm vàng sống là khi trời sáng của ngày hôm sau, nếu vậy việc Thụy Bà vào hoàng cung tấu với vua phải diễn ra vào ban đêm của ngày hôm trước, thế nhưng trong lời tấu của Thụy Bà lại nói: Quốc Tuấn ngông cuồng, đang đêm lẻn vào phòng của Thiên Thành. Toàn thư cho biết Quốc Tuấn nhân ban đêm lẻn vào phòng của Thiên Thành, như thế việc Quốc Tuấn lẻn vào phủ và Thụy Bà tấu với vua đều xảy ra vào cùng một đêm, nếu vậy việc Thụy Bà sử dụng lại thuật ngữ chỉ thời gian [đêm] trong lời tấu của mình xem ra có phần thừa. Thế nhưng lời tấu của Thụy Bà mà chúng ta biết, được chép lại bởi Ngô sử gia nên cách dùng từ ngữ chưa hẳn đã phải là của Thụy Bà.
- Sự việc Quốc Tuấn lẻn vào phủ và Thụy Bà vào cung tấu rồi quân lính của nhà vua tới dinh Nhân Đạo vương chỉ diễn ra trong một đêm như thế quãng đường di chuyển chắc cũng không quá xa. Trong khi theo Toàn thư mục năm 1261 thì theo quy chế nhà Trần, các vương hầu đều ở phủ đệ nơi hương ấp của mình, khi chầu hầu thì đến kinh đô, xong việc lại về phủ đệ, như Quốc Tuấn ở Vạn Kiếp, Thủ Độ ở Quắc Hương, Quốc Chẩn ở Chí Linh đều thế cả. Như thế phủ đệ của Nhân Đạo vương không thể ở quá xa kinh thành. Thiên Thành được đưa tới phủ Nhân Đạo vương thì rõ Trung Thành vương chưa có phủ riêng, vẫn còn ở với cha mẹ. Sau vua Thái Tông đem 2000 khoảng ruộng ở phủ Ứng Thiên để hoàn lại sính lễ cho Trung Thành vương. Phủ Ứng Thiên được xác định tương ứng với các huyện Ứng Hòa, Mỹ Đức, Chương Mỹ, Thanh Oai thuộc tỉnh Hà Tây.
- Con trai của Nhân Đạo vương được vua Trần Thái Tông gả cho con gái đầu thì xem ra Nhân Đạo cũng không phải tầm thường, hẳn là phải có đất phong rộng lớn và theo đúng quy chế của nhà Trần thì ngài phải ở hương ấp của ngài, chứ không thể lưu sống ở kinh thành. Qua việc vua lấy đất phủ Ứng Thiên hoàn lại sính lễ cho Trung Thành vương thì rất có thể đất phong của Nhân Đạo vương ở đó và như thế phủ đệ cũng ở đây. Tiếc là chúng ta không biết dinh phủ của Thụy Bà ở đâu nên không xác định được tính đúng đắn của thông tin.
Bài Giới thiệu một đạo sắc niên hiệu Vĩnh Tộ 6 (1624) với những thông tin về anh em Trần Thông đời Trần của tác giả Tạ Ngọc Liễn viết: “Xuất xứ: Đạo sắc ở đền thờ hai vị Đại vương ở xã Tảo Khê, huyện Ứng Hòa, Hà Tây (...) Nhân vật được phong: Vô tướng thượng sĩ uy pháp thông hóa vũ dũng cương nghị giản túc địch triết phu hưu hiển ứng minh uy Đại vương (...) Sau khi đối chiếu với ngọc phả của đền Trần triều nhân thần lưỡng vi Đại vương ngọc phả cổ lục thượng đẳng bộ tích (…) chúng ta biết về hành trạng vô tướng Thượng sĩ như sau: Vô tướng Thượng sĩ là Trần Vô, anh em sinh đôi với Trần Thông. Thân sinh ra ông Vô và ông Thông là Trần Hiển ở xã Phạm Tùng, huyện Gia Lộc, phủ Hạ Hồng, xứ Hải Dương và bà Nguyễn Thị Xuân, tức Nguyễn Thái Bà ở xã Tảo Khê, tổng Phương Đình, huyện Sơn Minh, phủ Ứng Thiên, nay là Ứng Hòa, tỉnh Hà Tây. Hai anh em Vô Tướng Thượng sĩ từng mộ quân chống lại Trần Thái Tông. Theo Ngọc Phả viết thì Trần Vô và Trần Thông đã có công giải cứu Lê Phụ Trần, đánh tan quân Mông Cổ trong cuộc kháng chiến lần thứ nhất. Trong hai cuộc chống Nguyên Mông sau, anh em ông Vô, ông Thông đều lập công lớn. Sau hai ông được cử vào làm quan ở Châu Hoan khoảng 5-6 năm; rồi cả hai xin về nghỉ dưỡng nhàn, được ban đất ngụ lộc tại xã Tảo Khê, tổng Phương Đình, huyện Sơn Minh, phủ Ứng Thiên. Một nghi vấn: Vô tướng Thương sĩ Trần Vô có phải là Trung Thành Vương ? Trong Đại Việt sử ký toàn thư (…) cho biết công chúa Thiên Thành được quyết định gả cho Trung Thành Vương, một người trong hoàng tộc, không rõ tên. Nhưng Trần Tuấn đã tranh trước, lấy được Thiên Thành công chúa. Vua Trần Thái Tông buộc lòng phải ưng thuận và lấy 2000 khoảnh ruộng ở phủ Ứng Thiên bồi thường cho Trung Thành Vương làm trang ấp. Như vậy là ở Ứng Thiên có trang ấp của Trung Thành Vương. Theo ngọc phả xã Tảo Khê thì Trần Vô, tức Vô Tướng Thượng sĩ (và em là Trần Thông) kiến lập trang ấp tại đây, xây đồn trại, có quân đội riêng. Mà Trần Vô, thực ra không phải là tên. Vị họ Trần này chỉ để lại pháp hiệu là Vô tướng Thượng sĩ. Tại sao anh em Vô tướng Thượng sĩ lại dấy binh chống lại Trần Thái Tông ? Chắc chắn là giữa hai bên có chuyện hiềm khích riêng, giống như chuyện xảy ra giữa Trần Liễu và Trần Thái Tông. Từ hành trạng Vô tướng Thượng sĩ ghi trong sắc phong và ngọc phả xã Tảo Khê thuộc phủ Ứng Thiên xưa, tôi ngờ rằng Trung Thành Vương chính là Vô tướng Thượng sĩ. Hai người này chỉ là một và trang ấp của ông ở phủ Ứng Thiên là khu vực xã Tảo Khê, nay thuộc huyện Ứng Hòa, Hà Tây”.
Toàn thư chép: “Ất Dậu [1285] Tháng 5 (…) Ngày mồng 10, có người từ chỗ giặc trốn về đến ngự doanh tâu báo: Thượng tướng Quang Khải, Hoài Văn Hầu Quốc Toản và Trần Thông, Nguyễn Khả Lạp cùng em là Nguyễn Truyền đem dân binh các lộ đánh bại quân giặc ở các xứ Kinh Thành, Chương Dương. Quân giặc tan vỡ lớn. Bọn thái tử Thoát Hoan, Bình chương A Lạt rút chạy qua sông Lô”.
- Có lẽ vị Trần Thông trong Ngọc phả là ngài Trần Thông trong Toàn thư, theo như Ngọc phả thì ngài Trần Thông là anh em sinh đôi với ngài Trần Vô, nhưng nếu ngài Trần Vô là Trung Thành vương thì hẳn là ngài Trần Thông cũng phải phong tước vương hoặc hầu, nhưng như Toàn thư chép thì Trần Thông không giữ tước gì nên rất khó để Trần Vô là Trung Thành vương. Nhưng cũng không loại trừ trường hợp Toàn thư không biết tước của Trần Thông nên không chép, giống như trường hợp Ngô sử gia không biết tên của Trung Thành vương. Thế nhưng chi tiết sau 2 ngài về dưỡng nhàn mới được ban đất ở phủ Ứng Thiên thì rõ là không giống với trước hợp hoàn lễ cưới cho Trung Thành vương. Tôi cho rằng Trần Vô không phải là Trung Thành vương mà có thể chỉ là thuộc tướng của Trung Thành vương. Và với khả năng của anh em Trần Thông thì không dám tụ tập binh mã chống lại Trần Thái Tông, trừ khi anh em Trần Vô theo Nhân Đạo hầu làm loạn như trường hợp của Yên Sinh vương Trần Liễu năm 1237. Và rất có thể thời điểm làm loạn là khi Trần Quốc Tuấn cướp công chúa Thiên Thành năm 1251.
- Thời nhà Trần, các vương hầu đều có hương ấp riêng, tự chủ tự quản đất phong của mình, có gia quân riêng nhưng tuân mệnh triều đình, do đó để củng cố quyền lực thì các ngành trong gia tộc thường dùng hôn nhân để liên kết. Riêng việc con trai Nhân Đạo vương được vua Trần Thái Tông gả trưởng công chúa thì rõ là Nhân Đạo vương rất thế lực, năm 1251 Trung Thành vương được hứa hôn với Thiên Thành công chúa thì chắc ngài cũng chỉ độ 20 tuổi. Theo Toàn thư mục năm 1241 thì con trưởng của các vương được phong vương, các con thứ được phong thượng vị hầu. Nếu vậy rất có thể Trung Thành vương là con trưởng của Nhân Đạo vương nên khả năng cao Nhân Đạo vương cũng chỉ ngoài 40 tuổi. Vốn là người rất có thế lực lại có độ tuổi ngoại tứ tuần thì tôi đang nghĩ tới khả năng Nhân Đạo vương là con của Thái sư Trần Thủ Độ hoặc An Quốc vương.
An Nam chí lược chép: “Trần Văn Lộng. Con của Nhân Thành hầu Trần Duyệt, cháu nội của quốc thúc thái sư Trần Thủ Độ, ở nước nhà được phong tước Chương Hoài thượng hầu, tính người kiêm tính ôn hòa, được quốc vương dùng làm đại tướng, trần thủ sông Tam Đái”.
- Theo An Nam chí lược thì ngài Trần Duyệt là con trai của Thái sư Trần Thủ Độ, được ban tước hầu có hiệu Nhân Thành. Trường hợp tên hiệu của dòng Hưng Đạo vương gợi ý cho chúng ta rằng: Nhân Đạo vương rất có thể là con trai trưởng của Thái sư Trần Thủ Độ. Thêm vào đó, người cháu của thái sư là Trần Văn Lộng được trấn thủ sông Tam Đái. An Nam chí lược viết: “Tam Đái giang. Nước sông Quy Hóa từ Vân Nam chảy về, nước sông Tuyên Quang từ Đặc Ma Đạo chảy tới, nước sông Đà từ nguồn Chàng Long chảy về, nhân có ngã ba nên đặt tên như vậy”. Nay chắc là ngã ba sông Bạch Hạc thuộc tỉnh Phú Thọ, khá gần với đất Hà Tây, nơi là đất phong của Nhân Đạo vương.
Đại Nam nhất thông chí chép: “Tỉnh Hà Nội. Đền thần Trung Thành ở xã Đa Chất huyện Phú Xuyên, tương truyền thần Trung Thành tức là thủy thần ở ngã ba Bạch Hạc”.
Bài Tín ngưỡng thờ Trung Thành Phổ Tế Đại vương ở huyện Phú Xuyên, Hà Tây của tác giả Vũ Quang Dũng viết: “Theo thần tích của một số làng ở huyện Phú Xuyên: quê nội của thần ở trang Cửu Giang, huyện An Lão, phủ Kinh Môn thuộc đất Ái Châu, thân phụ của thần là người họ Đào, tên húy là Bột (…) gia đình danh giá nối đời làm quan trong triều. Ở thời Hùng Duệ Vương, ông làm quan tới chức Thiếu phó, rồi làm chủ bộ Hoan Châu, do có công dẹp loạn ở Hải Dương, nên được phong làm Bộ chủ quận Hải Dương. Đào công lấy người vợ thứ nhất là Phạm Thị Điểm, người cùng bản huyện, vốn dòng thi lễ, tính cách đoan trang, nết na dịu hiền, sau đó mất sớm. Ông bèn lấy bà Nguyễn Thị Hương (19 tuổi) là con của huyện lệnh huyện Kim Bảng, phủ Lý Nhân, xứ Sơn Nam. Vợ chồng sống rất hạnh phúc, ít lâu sau, vợ chồng sinh được 5 người con trai, đặt tên là: Cự Công, Lân Công, Trưởng Công, Khanh Công, Quý Công. Vị thứ ba (Trưởng Công) chính là thần Trung Thành Phổ Tế đại vương (…) Khảo sát trên thư tịch (…) về thần tích, thần sắc của 153 làng, xã cũ ở huyện Phú Xuyên, thì có 28/153 thôn, làng thời Trung Thành Phổ Tế đại vương (...) Về tên gọi, chúng tôi thấy Trung Thành Phổ Tế đại vương được người dân Phú Xuyên thờ phụng với những thần hiệu khác nhau: Thổ Lệnh Trưởng (…) Trưởng Công (…) Trung Thành đại vương (…) Trung Thành Phổ (Phả) Tế đại vương (…) Trưởng Lịnh (…) Lương Trưởng (…) Qua khảo sát, điền dã, chúng tôi thấy các làng thờ Trung Thành Phổ Tế đại vương, ngày sinh, ngày hoá cũng có sự khác nhau. Các làng: Cổ Trai, Đa Chất (…) Phú Nhiêu (…) Văn Trai (…) ngày sinh 12 tháng 2 (…) Làng Cổ Chế (…) ngày sinh 12 tháng 6 (…) Làng Tri Thuỷ (…) ngày sinh 6 tháng 2 năm Đinh Mão”.
Bài đình Nhật Tân, xã Nhật Tân, huyện Kim Bảng, tỉnh Hà Nam trên đường link https://vanxahanam.blogspot.com viết: “Đình thờ Bản Cảnh Thành Hoàng Trung Thành Phổ Tế Đại vương Trường Lệnh, Ngài là vị tướng giỏi thời Hùng Duệ Vương. Theo truyền thuyết của địa phương, căn cứ vào thần phả, sắc phong cùng các câu đối, đại tự còn lưu giữ ở đình, có thể tóm tắt tiểu sử của vị thần như sau: Thời Hùng Duệ Vương thứ 18 ở xã Bạch Hạc, thành Phong Châu, phủ Tam Đới,đạo Tây Sơn có ông Nguyễn Hinh lấy vợ tên là Mai Thị Duyệt, người ở xã Đa Chất huyện Phù Vân, phủ Thường Tín, đạo Sơn Nam (...) Ngày 20/05 năm Bính Dần bà sinh ra một bọc trong đó có hai người con trai. Vui mừng khôn xiết, ông bà liền đặt tên cho con: người anh là Trường Lệnh, người em là Thạch Khanh (...) Năm 14 tuổi cha mẹ nối nhau qua đời. Hai ông lo tròn đạo hiếu tìm nơi đất tốt làm lễ an táng cha mẹ. Chịu tang 3 năm, từ đó cảnh nhà lâm vào túng thiếu (...) Năm 19 tuổi gặp khi vua Duệ Vương  dựng lều kén rể cho con gái là Mị Nương, hai ông cùng về kinh thành đọ sức thi tài với các anh hùng hào kiệt bốn phương. Thời đó Tản Viên Sơn Thánh là người có tài thông trời suốt đất, có diệu thuật lấp biển rời non, hô gió gọi mưa. Vì thế vua cho là bậc tài giỏi nhất trong thiên hạ, nhận lời gả công chúa cho làm vợ. Vua rất khâm phục trí và tài cao của hai ông sau cuộc thi. Nên phong Trường Lệnh là hữu đô đài, Thạch Khanh là tả đô đài. Vài năm sau (…) Thục Phán bèn huy động quân sỹ, lương thảo chia làm 5 đạo quân tiến đánh thành Phong Châu, vua phong Tản Viên Sơn Thánh làm Đại Tướng quân, nguyên soái thống lĩnh thuỷ bộ cùng các tướng lĩnh chia đường đón đánh. Ông Trường Lệnh cùng Thạch Khanh biểu xin vua cho được đem quân sỹ đánh dẹp quân Thục (…) vua phong cho ông là Trung Thành đại vương (…) đang lúc ăn uống vui vẻ thì ông bỗng nhiên qua đời”.
- Chúng ta đã thấy được vài truyền thuyết về nhân vật Trung Thành Phổ Tế đại vương, những nơi thờ tự ngài phần nhiều thuộc hoặc gần vùng Hà Tây nên tôi cho rằng vị thần Trung Thành Phổ Tế đại vương có nhân hình chính là Trung Thành vương. Có 3 bằng chứng cụ thể sau: Trước là theo truyền thuyết của làng đình Nhật Tân thì Trường Lệnh có tham gia cuộc thi kén rể của Hùng Duệ vương nhưng rồi cuối cùng công chúa về với Tản Viên Sơn Thánh, thông tin này làm chúng ta liên tưởng tới trường hợp Hưng Đạo vương cướp công chúa Thiên Thành của Trung Thành vương. Giữa là theo khảo sát các truyền thuyết thì phần nhiều cho thấy ngày sinh của ngài là 12/02, thông tin này làm chúng ta liên tưởng tới sự kiện Trần Quốc Tuấn lén vào phòng của Thiên Thành công chúa khoảng ngày 15/02. Sau là trong bài Tây chinh đạo trung của Trần Nhân Tông có 2 câu thơ là: “Cẩm phàm khinh sấn lãng hoa khai - Bồng để yêm yêm thủ bất đài”. Hai câu thơ này có mô tả những chi tiết liên quan tới thuyền chiến, như thế rõ là khi Trần Nhân Tông tây phạt có sử dụng thuyền. Trong khi Trung Thành đại vương thường được đồng nhất với thủy thần như ghi chép của Đại Nam nhất thông chí.
- Thêm nữa, Toàn thư chép: “Giáp Ngọ [1294] Tháng 8, thượng hoàng đích thân đi đánh Ai Lao, bắt được người và súc vật nhiều không kể xiết. Trong chiến dịch này, Trung Thành vương làm tiên phong, bị quân Ai Lao bao vây”. Tôi cho rằng: rất có thể Trung Thành vương có đạo thủy quân khá mạnh. Bằng chứng khác là Nguyên Văn Loại, quyển 41, Kinh Thế Đại Điển Tự Lục, mục Chinh Phạt, phần An Nam chép: “Tháng tư, quân Giao dấy quân lớn, Hưng Đạo Vương tấn công Vạn Hộ Lưu Thế Anh ở đồn A Lỗ, Trung Thành Vương đánh Thiên Hộ Mã Vinh ở Giang Khẩu, đều đánh chúng lui. Không lâu sau, thủy bộ địch đến công đại doanh, vây thành mấy vòng, tuy chết nhiều nhưng quân tăng thêm mỗi lúc một đông, quan quân sớm tối kịch chiến mệt mỏi, khí giới đều đã dùng hết, nên bỏ kinh thành chúng vượt sông đồn trú, bãi quân” [dẫn theo đường link https://sites.google.com]
Cuộc kháng chiến chống Nguyên Mông thế kỷ XIII của tác giả Hà Văn Tấn và Phạm Thị Tâm có viết: “Trong tháng 4 năm Ất Dậu (6/5 – 4/6/1285) Hưng Đạo vương đã đem quân tấn công vào đồn A Lỗ. Đồn này nằm gần chỗ sông Hồng nối với sông Luộc ngày nay, có lẽ đây là cứ điểm đầu tiên trên phòng tuyến của quân Nguyên trên sông Hồng. Viên tướng Nguyên giữ đồn này là vạn hộ Lưu Thế Anh đã phải rút chạy. Cũng trong tháng 4 âm lịch, một loạt các đồn trại khác của giặc trên sông Hồng bị quân ta tấn công. Chiêu Thành vương (không rõ tên) Hoài Văn hầu Quốc Toản và tướng quân Nguyễn Khoái được lệnh đem quân đón đánh quân Nguyên ở bến Tây Kết. Chiêu Văn vương Trần Nhật Duật và các tướng khác đã đánh tan giặc ở cửa Hàm Tử (…) Sau chiến thắng Hàm Tử, Chiêu Minh vương Quang Khải, Hoài Văn hầu Quốc Toản cùng các tướng khác đem quân vào đánh Chương Dương và Thăng Long. Phối hợp với quân chủ lực của triều đình còn có các đạo dân binh ở các lộ do Trần Thông, Nguyễn Khả Lạp và em là Nguyễn Truyển chỉ huy. Quân ta đã tiến đánh Thăng Long từ các mặt bộ và thủy. Trong khi tấn công vào thành, tướng Trần là Trung Thành vương đã đánh tan quân giặc do thiên hộ Mã Vinh chỉ huy ở Giang Khẩu” và trong một ghi chú có viết thêm: “Chúng tôi cho rằng các sự kiện mà Kinh thế đại điển tự lục chép không phải là xảy ra ở các địa điểm gần nhau vì sau đó đã chép đến việc bao vây thành Thăng Long. Chúng tôi cho rằng ở đây Tự lục chỉ chép một trận ở đầu phòng tuyến sông Hồng và một trận cuối, bỏ qua các trận Tây Kết, Hàm Tử, Chương Dương”.
- Theo Kinh thế đại điển tự lục thì khoảng tháng 4/1285 Trung Thành vương tấn công quân Nguyên ở Giang Khẩu, theo Toàn thư thì khoảng tháng 5/1285 Trần Thông tham gia cuộc tấn công quân Nguyên ở khu vực kinh thành Thăng Long. Hai sự kiện này tỏ vẻ ủng hộ nghi vấn của tác giả Tạ Ngọc Liễn. Thế nhưng như tác giả Hà Văn Tấn và Phạm Thị Tâm viết thì Trần Thông cũng chỉ tầm Nguyễn Khả Lạp và Nguyễn Truyển, chỉ huy đám dân binh mộ được ở các hương lộ, chứ không phải lãnh đạo quân đội chính quy. Nhận định của 2 tác giả có lẽ phần nhiều là phán đoán trên ghi chép của Toàn thư rằng Trần Quang Khải và Trần Quốc Toản có quân đội riêng, trong khi Toàn thư chép rõ rằng Quang Khải, Quốc Toản, Trần Thông, Nguyễn Khả Lạp, Nguyễn Truyển đem dân binh ở các lộ đánh bại quân giặc nên đám dân binh tuyển được ở các lộ hẳn là do Trần Thông, Nguyễn Khả Lạp, Nguyễn Truyển chỉ huy rồi, nhưng nếu Trần Thông là Trung Thành vương thì lại xuất hiện biến khác. Mà kể cũng lại, theo Tự lục thì rõ là Trung Thành vương có vai trò trong cuộc chiến mà cụ thể là trận Giang Khẩu vậy mà Toàn thư lại bỏ sót không chép ? Cũng theo 2 tác giả Hà Văn Tấn và Phạm Thị Tâm thì trong tháng 4/1285 A Lỗ là trận mở đầu, sau đó đến trận Tây Kết, rồi Hàm Tử, tiếp theo là Chương Dương, sau trận Chương Dương, đại quân tấn công Thăng Long, thành Thăng Long có nhiều điểm quân Nguyên trấn giữ, Trung Thành vương dẫn quân tấn công điểm trấn giữ ở Giang Khẩu. 
Trong bài Nguyễn Văn San bàn về việc lưu truyền thần tích của tác giả Nguyễn Tá Nhí viết: “Cẩn án: Sự tích Thổ Lệnh đại vương chép trong sách Việt điện u linh tập và Giao Châu kí so với sự tích Tôn thần ở Lương Giang này thì đại đồng tiểu dị. Ở Lương Giang thì gọi là Lương Giang Thuỷ thần Trung Thành đại vương, ở Việt điện u linh tậpthì gọi là Bạch Hạc xã thần Trung dực Vũ phụ Uy hiển đại vương, thế thì há lại có hai sự tích Thổ Lệnh đại vương được chăng ? Có lẽ là Lý Thường Minh ở Phong Châu là việc có thực, đi thuyền qua Lương Giang cũng là việc có thực (...) Lại thấy đền thờ ở bên bờ sông liền gọi là Thuỷ thần. Ôi, đại vương gọi là Thổ Lệnh thì đại vương phải là Xã thần, mà không thể là Thuỷ thần, việc ấy đã rõ (...) Thôn Đống Tranh thờ phụng Trung Thành đại vương, chữ vàng long bài thấy đề hàng chữ Phổ tế Hiển ứng Dực vận Nhân thánh Hộ hựu Chính trung đẳng vị Minh Thành đại vương. Đọc xem hàng chữ này, không rõ vị thần được thờ phụng ở đây là thần nào ? Cũng không rõ thần được thờ ở đây gồm mấy vị ? Có người bảo rằng anh em của thần gồm năm, sáu người (...) Xem trong Việt điện u linh lục ghi chép đêm thần hiển linh chỉ xưng là Thổ Lệnh mà thôi, thế thì tại sao biết được thần có anh em, cái sau quả đã rõ rồi. Hỏi thăm dân làng, thì thấy đều nói là có một cỗ long bài, một bộ chén rượu, một vị sắc phong. Vậy thì thần thờ ở thôn Đống Tranh chỉ duy nhất có một vị là Trung Thành đại vương, điều ấy thực đã rõ ràng”.
- Trong vài thần tích về ngài Trung Thành Phổ Tế đại vương, chúng ta thường thấy ngài có người anh em sinh cùng bọc, nhưng như lời cẩn án của Nguyễn Văn San thì chỉ ngài Trung Thành đại vương được thờ, trong khi theo truyền thuyết thì công trạng của người anh em với ngài cũng xứng đáng được thờ cúng, có lẽ nhân hình chính là Trung Thành vương không có anh em song sinh. Trong bài viết của tác giả Tạ Ngọc Liễn thì Trần Thông cũng có người anh em song sinh là Trần Vô, sau Trần Vô trở thành thượng sĩ hiệu là Vô Tướng và thú vị là dân gian thờ ngài nhưng lại không biết tên húy của ngài trong khi biết rõ tên húy của cả cha và mẹ ngài, tôi cho rằng không hề có ngài Trần Vô, đúng hơn ngài Trần Vô chính là Trần Thông tướng quân. Rất có thể dân gian chịu ảnh hưởng bởi motif sinh từ bọc trứng nên trong những truyền thuyết thường xuất hiện anh em song sinh. Bằng chứng khác cho thấy Trần Vô và Trần Thông chỉ là một người, đó là công đức của Trần Thông cũng như Trần Vô thế rồi chẳng hiểu sao chỉ mỗi ngài Vô tướng thượng sĩ là được thờ phụng mà thôi.
- Rốt lại có sự tương đồng giữa thần tích về Trung Thành Phổ Tế đại vương với Vô tướng thượng sĩ, nhưng những điểm tương đồng chủ yếu đến từ khuân mẫu, motif do đó dựa vào sự tương đồng [vốn có] để cho rằng Trần Vô cũng là Trần Thông và chính là Trung Thành vương thì có phần gượng ép. Trong khi tất cả những sự kiện riêng có thì hoàn toàn khác nhau, ngoại trừ chi tiết cả 2 đều được có ấp phong ở phủ Ứng Thiên. Nhưng như đã viết ở trên thì nếu Trần Thông là môn khách ở phủ Trung Thành vương lại có công trong cuộc kháng chiến chống quân Nguyên thì việc ngài có ấp phong ở phủ Ứng Thiên cũng hoàn toàn hiểu được.
Tiểu kết: Tôi đặt giả thuyết rằng Trung Thành vương chính là nhân hình của thần Trung Thành Phổ Tế đại vương, ngài là cháu nội của thái sư Trần Thủ Độ. Liên quan tới việc tranh công chúa Thiên Thành với Hưng Đạo vương rất có thể không đúng như Toàn thư chép, do tôi chưa có tài liệu nào để phác họa kịch bản của mình nhưng tôi đang nghĩ đến truyền thuyết Sơn Tinh và Thủy Tinh, tôi nghĩ giữa 2 cuộc tranh công chúa có mối quan hệ giao thoa. Có tài liệu cho rằng Trần Quốc Toản là con trai của Trung Thành vương, việc này chúng ta sẽ bàn trong câu chuyện về Hoài Văn hầu.