Thứ Hai, 10 tháng 12, 2018

VIỆT CHIÊM TRƯỜNG TRẬN TÂN BIÊN (PHẦN 3)



1. Toàn thư chép: “Mậu Thìn [1028] Trong khoảng niên hiệu Thiên Cảm Thánh Vũ [1044 -1048] [Lê Phụng Hiểu] theo Thái Tông đi đánh ở miền nam, làm tiên phong, phá tan quân giặc, danh tiếng rung động nước Phiên (…) Quý Mùi [1043] Mùa hạ tháng 4, giặc gió sóng (nghĩa là nhân gió sóng mà đi cướp) Chiêm Thành cướp bóc dân ven biển. Vua sai Đào Xử Trung đi đánh, dẹp yên được (…) Giáp Thân [1044] Mùa xuân tháng giêng, phát khí giới trong kho ban cho các quân. Ngày Quý Mão, vua thân đi đánh Chiêm Thành, cho Khai Hoàng Vương làm Lưu thủ Kinh sư. Ngày Giáp Thìn, quân đi từ Kinh sư, ngày Ất Tị đến cửa biển Đại Ác. Đến núi Ma Cô, có đám mây tía bọc lấy mặt trời. Qua vụng Hà Não, có đám mây che thuyền ngự, thoe thuyền mà đi hoặc ngừng. Ngày hôm ấy đến đóng doanh ở cửa biển Trụ Nha (có bản chép Trụ Thân). Ngày hôm sau đi, nhờ thuận gió, trong một ngày qua hai bãi Đại Tiểu Trường Sa. Đến cửa biển Tư Khách, có con cá trắng nhảy vào thuyền. Vua nghe tin Chiêm Thành đem quân và voi bày trận ở bờ nam sông Ngũ Bồ muốn chống cự quan quân. Vua truyền cho quân bỏ thuyền lên bộ, đem quân sĩ lên bờ bắc, thấy quân Chiêm đã dàn ở bên sông. Vua mới cắt đặt quân sĩ dựng cờ nổi trống, sang tắt ngang sông đánh. Binh lính chưa chạm mà quân Chiêm đã tan vỡ, quan quân đuổi chém được 3 vạn thủ cấp. Quách Gia Di chém được đầu vua Chiêm là Sạ Đẩu tại trận đem dâng. Đoạt được hơn 30 voi thuần, bắt sống hơn 5 nghìn người, còn thì bị quan quân giết chết, máu nhuộm gươm giá, xác chất đầy đồng (...) Mùa thu tháng 7, vua đem quân vào thành Phật Thệ bắt vợ cả, vợ lẽ của Sạ Đẩu và các cung nữ giỏi hát múa khúc điệu Tây Thiên. Sai sứ đi khắp các hương ấp phủ dụ dân chúng. Các quan chúc mừng thắng lợi (...) Tháng 8, đem quân về. Tháng 9 ngày mồng 1, đến phủ Trường Yên, có rồng vàng hiện ở thuyền ngự (...) Vua từ Chiêm Thành về, làm lễ cáo thắng trận ở miếu Thái Tổ, xong về ngự ở điện Thiên An, mở tiệc rượu làm lễ mừng về đến nơi. Ngày hôm ấy, bầy tôi dâng tù binh hơn 5 nghìn tên và các thứ vàng bạc châu báu. Xuống chiếu cho các tù binh đều được nhận người cùng bộ tộc, cho ở từ trấn Vĩnh Khang đến Đăng Châu (nay là Quy Hóa) đặt hương ấp phỏng tên gọi cũ của Chiêm Thành (...) Mùa đông tháng 11, ban thưởng cho những người có công đi đánh Chiêm Thành có công từ lục phẩm trở lên, thưởng áo bào gấm, từ thất phẩm trở xuống thưởng áo là”.
An Nam chí lược chép: “Lê Hiểu người làng Băng Sơn châu Ái, lúc tuổi trẻ rất hùng mạnh (…) Vua Lý nghe tiếng, dùng Hiểu làm tướng, lúc ấy có tàu lớn ngoại quốc đến cửa biển, có ý muốn xâm lăng, Hiểu tâu vua xin làm một trăm chiếc thuyền chở cây lớn nhọn đầu. Quân giặc tiến, Hiểu lao cây đánh chìm, quân giặc đều bị chết đắm, vua khen ngợi thưởng công”.
-- Sự kiện tướng quân Lê Phụng Hiểu được Toàn thư chép mục năm 1028 là lấy từ truyện Lê Phụng Hiểu trong sách Việt điện u linh, tuy nhiên ghi chép của Toàn thư sai khác với ghi chép của An Nam chí lược, theo Lê Tắc thì chiến thuyền của ngoại quốc tiến đánh Đại Việt, Phụng Hiểu đem trăm thuyền đánh thắng, nhân đó được ban thưởng. Sự sai lệch giữa Toàn thư và An Nam chí lược được Nam Ông mộng lục giải thích thông qua việc Lê Phụng Hiểu tham gia 2 trận đánh lớn cách nhau hơn 10 năm. Hồ Nguyên Trừng cho biết trận đầu của Hiểu giống ghi chép của An Nam chí lược, trận sau Hiểu được làm tiên phong, ban Uy Viễn tướng quân (vị thống lĩnh có uy tại vùng xa xôi - có lẽ hàm chỉ vùng đất phía nam). Lại thêm, truyện Lê Phụng Hiểu trong Việt điện u linh được Lý Tế Xuyên lấy từ sách Việt sử bổ di, do đó thông tin về Uy Viễn tướng quân được chép trong Toàn thư là có thể tin được.
-- Theo ghi chép của Toàn thư và Việt sử lược năm 1028 Đào Xử Trung được thăng làm Thái bảo, đến năm 1043 người Chiêm vào cướp vùng châu Hoan, Lý Thái Tông cử Trung đem quân vào nam đánh và thắng được [Thái bảo Đào Xử Trung có lẽ cùng gia tộc với Thái bảo Đào Thạc Phụ (1012) và Thái sư á vương Đào Cam Mộc (1015). Theo Toàn thư người cùng Thái Tông đánh trại Bố Chính năm 1020 là Đào Thạc Phụ] Thăng Long có ý định đánh Chiêm Thành nên đoàn quân do thái bảo nam tiến vào mùa hạ năm 1043 sẽ không trở ra bắc sau khi đánh dẹp giặc sóng gió, mà lưu tại Hoan châu, chờ hợp binh với đại quân do Phật Mã thống lĩnh vào mùa xuân năm 1044.
-- Qua lại giữa Hoan châu và Thăng Long cũng khoảng 30 ngày, nếu người Chiêm chỉ nhân sóng gió mà cướp vùng biển thì hẳn Thái Tông không phải điều quân từ Thăng Long vào, do đó tình hình biên giới Việt Chiêm khá nghiêm trọng, chứ không đơn cử là cuộc cướp bóc chớp nhoáng.
-- Trong hành trình của đại quân, Thái Tông có nghỉ lại cửa biển Trụ Nha [Người viết hiện không xác định được địa danh này. Đại Nam nhất thống chí có nêu 2 địa danh gồm núi Nhự Nha ở Quảng Bình và xã Trảo Nha ở Hà Tĩnh] sau khi đi qua núi Ma Cô [Cương mục cho biết núi này thuộc vùng biển Kỳ Anh] và vụng Hà Não [Tác giả Đào Duy Anh cho rằng có thể là vụng Chùa] Như vậy đại quân do Thái Tông thống lĩnh nghỉ tại cửa biển vùng biên giới Việt Chiêm, có lẽ để đợi cánh quân của Đào Xử Trung, cũng như nhận lương thực từ các kho tại Nghệ An được dựng vào năm 1037.
-- Chúng ta không có nhiều thông tin về đoàn quân, so sánh với chiến dịch năm 1069 thì thấy thời gian của chiến dịch năm 1044 nhiều hơn khoảng 60 ngày. Việc bị người Chiêm cầm cự khoảng 100 ngày tại sông Ngũ Bồ cũng buộc chúng ta phải đặt câu hỏi về tình hình lương thảo. Liệu rằng có sự tiếp tế lương thực từ Nghệ An trong thời gian diễn ra chiến dịch không hoặc có xảy ra tình trạng cướp bóc của quân Đại Việt đối với dân Chiêm Thành thuộc vùng chiếm đóng ?
Ghi chú số 99 trong bản dịch Việt sử lược của tác giả Trần Quốc Vượng viết: “Toàn thư chép là Khuếch Gia Di. Cương mục chép là Quách Gia Di”.
-- Người viết chưa được thấy nguyên bản cuốn Đại Việt sử ký toàn thư nên không rõ sách ấy chép là Khuếch hay Quách. Nhưng với uy tín của tác giả Trần Quốc Vượng thì có lẽ Toàn thư chép là Khuếch sẽ không sai. Nếu là Khuếch thì rõ ràng đó là thông tin khá thú vị, nó cho phép phỏng đoán rằng các sử gia đã chép họ tên của người chém đầu chúa Sạ Đẩu thông qua âm. Nói cách khác, tướng chém chúa Sạ Đẩu là người Chiêm Thành, các binh lính của Thái Tông nghe (theo âm của người Việt) thành Khuếch Gia Di. Lại thêm, nếu vị tướng chém đầu chúa Chiêm họ Quách, thì vào tháng 11 năm 1044 hẳn vị tướng sẽ được trọng thưởng, nhưng sách sử cho biết năm 1048 người giữ chức Thái úy họ Quách tên Thịnh Dật (là người cùng với Lê Phụng Hiểu giúp Thái Tông kế ngôi) không phải Gia Ý.
-- Theo như mô tả của Toàn thư, sau khi người Chiêm tan vỡ, quân Thăng Long truy sát chém 3 vạn thủ cấp, bắt sống hơn 5 ngàn người, khi vào tới thành Phật Thệ bắt thêm các bà vợ và cung nữ của chúa Sạ Đẩu. Đến khi mở tiệc tại Thăng Long thì “bầy tôi dâng tù binh hơn 5 ngàn tên” rồi sau đó “cho các tù binh đều được nhận người cùng bộ tộc” và “đặt hương ấp phỏng tên gọi cũ”. Những thông tin trên cho phép chúng ta phỏng đoán: có khoảng 3 vạn lính Chiêm Thành bị chém cùng với rất nhiều dân thường, qua việc định cư hương ấp cho thấy trong 5 ngàn người bị bắt có cả phụ nữ trẻ em, chứ không phải chỉ quân lính. Đại quân phương bắc do Thái Tông thống lĩnh, gồm nhiều cánh quân nhỏ do các tướng chỉ huy, mỗi cánh quân tuân thủ nghiêm ngặt pháp lệnh của thống lĩnh, nhưng cũng được phép hành xử riêng như cướp bóc, bắt tù binh (để làm tài sản riêng). Khi tiến vào thành Phật Thệ, Phật Mã bắt giữ những người phụ nữ của Sạ Đẩu như thế hơn 5 ngàn tù binh do bầy tôi dâng lên cũng chính là hơn 5 ngàn tù binh bắt được tại trận Ngũ Bồ, do đó củng cố thêm cho giả thuyết: trận Ngũ Bồ là trận kết thúc chiến dịch chứ không phải cả chiến dịch chỉ diễn ra một trận Ngũ Bồ.
2. Sách Le Royaume De Champa của M. Georges Maspero viết: “Ngài là một vị chúa tể, có tổ tiên chỉ là các chiến binh, Icvaras, người hầu cận của các vị chúa tể trước đó, ngài đã nắm được quyền lực và tự lên ngôi với cái tên Jaya Paramesvaravarman”.
Ghi chú 1 viết: “Vua Rudravarman, người thuộc gia đình quý tộc của Icvaras của Sri Paramesvara”.
Sách Ancient Indian Colonies In The Far East của Ramesh Chandra Majumdar viết: “Vua Rudravarman, thuộc gia đình quý tộc và thế lực của Sri Paramesvara và là em trai của Sri Bhadravarman” [Số thứ tự 60. Chữ khắc tại ngôi đền Po-Nagar về Rudravarman]
Sách Vương quốc Champa của Pièrre-Bernard Lafont viết: “Một vị quốc vương mới của Champa mà người ta không biết rõ nguồn gốc, đã lên ngôi tại Vijaya vào năm 1044, vị vua đầu tiên của triều đại này là Jaya Paramesvaravarman I. Ngay từ lúc nhận vương phong là Rajadiraja (vua của các vua) Jaya Paramesvaravarman I phải đương đầu với sự chống đối của Panduranga, không công nhận ông ta là thủ lĩnh của liên bang Champa, vì tiều quốc này đã chọn một hoàng tử có xuất thân từ miền nam lên làm vua vương quốc. Vị hoàng tử nối ngôi [Yuvaraja - con của người em gái tuyệt với của vua Jaya Paramesvaravarman I] nhận lệnh đem quân sang miền nam dẹp loạn vào năm 1050 [đồng thời cho cư dân của Panrang là những kẻ hư hỏng, hung dữ, ngu dốt luôn nổi loạn chống lại các nhà vua] Vị vua nối ngôi kế tiếp là Bhadravarman III mà người ta không biết nhiều về tiểu sử của ông ta (…) Tiếp theo là người em trai của Bhadravarman III lên ngôi vào năm 1061 tại Vijaya lấy vương hiệu là Rudravarman”.
-- Cứ theo như thông tin được khắc trên đền Po-Nagar thì xác định được vua Rudravarman thuộc gia đình của vua Paramesvaraman, nhưng nguồn gốc xa hơn thì không được biết rõ.
Tống sử chép: “Tháng giêng năm Hoàng Hữu thứ hai (1050) lại sai Câu Xá Lị Ba Vi Thu La Bà Ma Đề Dương Bốc sang cống ngà voi hai trăm lẻ một cây, sừng tê bảy mươi chín cây”.
Tống hội yếu tập cảo chép: “Tháng giêng năm Hoàng Hữu thứ hai (1050) Quốc chủ Câu Xá Lị Ba Vi Thu La Bà Ma Đề Dương Bốc cống ngà voi hai trăm lẻ một cây, sừng tê giác bảy mươi chín cây”.
-- Xem Tống sử thấy rằng mỗi khi Chiêm Thành có quốc vương mới, thì sử quan phương bắc sẽ chép lại rất rõ tên xưng của vị quốc vương đó trong lần sứ sang đầu tiên. Sau sự kiện Lý Thái Tông đánh Chiêm Thành chém chúa Sạ Đẩu năm 1044 thì lần sứ của Chiêm Thành sang Tống năm 1050 là lần đầu của triều đại mới, do đó có thể xác định Tống hội yếu đã ghi chép chính xác, Câu Xá Lị Ba Vi Thu La Bà Ma Đề Dương Bốc là Quốc vương của Chiêm Thành và rất có thể tên Phạn là Jaya Paramesvaravarman.
Việt sử lược chép: “Giáp Thân [1044] Tháng chạp đặt trạm Hoài Viễn ở Gia Lâm để cho các khách sứ bốn phương tới ngụ (…) Bính Tuất [1046] Mùa hạ tháng năm, dựng cung Ngân Hán ở vườn hậu uyển cho cung nhân Chiêm Thành ở (…) Đinh Hợi [1047] Đặt trấn Vọng Quốc và bảy trạm Quy Đức, Bảo Khang, Tuyên Hóa, Thanh Bình, Vĩnh Thông, Cảm Hóa, An Dân mỗi nơi đều dựng mốc tiêu đề để làm nơi trú ngụ cho man di. Chiêm Thành tới cống, vua xuống chiếu đày sứ giả của nó lên châu Chân Đăng, lấy cớ vua nó là Ung Ni [雍尼] vô lễ [bất cung - không tôn trọng] Ất Mùi [1055] Chiêm Thành tới cống (…) Đinh Dậu [1057] Chiêm Thành tới cống (…) Kỷ Hợi [1059] Chiêm Thành tới cống (…) Canh Tí [1060] Vua thân phiên dịch nhạc khúc và tiết âm cổ của Chiêm Thành, sai nhạc công ca hát. Chiêm Thành tới cống (…) Quý Mão [1063] Chiêm Thành tới cống (…) Ất Tị [1065] Chiêm Thành tới cống một con tê trắng”.
Ghi chú 106 viết: “Theo Cương mục bảy trạm đều ở Thái Nguyên”.
Toàn thư chép: “Giáp Thân [1044] Xuống chiếu cho các tù binh đều được nhận người cùng bộ tộc, cho ở từ trấn Vĩnh Khang [Cương mục chua là thuộc Nghệ An] đến Đăng Châu [Cương mục chua là thuộc Hưng Hóa] đặt hương ấp phỏng tên gọi cũ của Chiêm Thành (…) Canh Dần [1050] Mùa xuân tháng 3, Chiêm Thành dâng voi trắng (…) Mậu Thân [1068] Chiêm thành dâng voi trắng, sau lại quấy nhiễu biên giới”.
-- Việc lập ra trấn Vọng Quốc được chép cùng với việc đặt ra 7 trạm dành cho người man di cho phép chúng ta xác định, trước hết trấn Vọng Quốc được lập có mục đích giống như lập 7 trạm và sau cùng rất có thể trấn Vọng Quốc ở gần với 7 trạm. Qua tên trấn là Vọng Quốc thì rất có thể trấn này được dựng lên cho người man di Chiêm Thành, như thế rất có thể trấn này nằm ở gần Đăng Châu.
Sách Lý Thường Kiệt. Lịch sử ngoại giao và tông giáo triều lý của tác giả Hoàng Xuân Hãn viết: “Sau khi cống vua ta một con tê trắng vào năm 1065 (VSL) Chiêm-thành không sai sứ sang ta nữa. Thật ra, sách Toàn thư có chép rằng "năm 1068, Chiêm-thành hiến voi trắng, nhưng sau lại nhiễu biên giới". Nhưng chắc TT lầm, vì một lẽ việc ấy không thấy chép ở VSL là sách chép rất đầy đủ về các việc Chiêm-thành cống vua ta và lẽ nữa là còn có nhiều chứng cớ khác tỏ rằng từ năm 1065, Chiêm-thành tuyệt giao với ta (…) Chứng đầu là lời bia LX nói rõ rằng: "kịp đến khi nước Phật-thệ (tức là Chiêm-thành) hỗn phép không tới chầu, quân nhà vua rầm rộ kéo sang đánh". Chứng thứ hai là sau khi khải hoàn, vua Lý dâng biểu sang vua Tống nói rằng: "Chiêm-thành đã lâu không tới cống, tôi tự đem quân sang đánh, bắt được chúa nó về" (TS 488). Hai tài liệu xưa ấy chứng rằng trong bốn năm (1065-1069) Chiêm-thành không tới cống vua Lý và ta vin vào cớ này để đánh nước ấy”.
Ghi chú 2 viết: “Toàn thư chép: năm ấy (1068) châu Chân-đằng hiến hai voi trắng; cho nên vua đổi niên hiệu ra Thiên-huống-báu-tượng, nghĩa là trời cho voi quí. TT lại chép thêm: "Chiêm-thành hiến voi trắng, nhưng sau lại nhiễu biên giới". VSL cũng chép rằng: "Tháng giêng châu Chân-đằng hiến hai voi trắng. Châu Kỷ-lang (chắc là Quang-lang, VSL lầm chữ quang là sáng ra chữ kỷ là ghế, vì hai chữ tự dạng gần nhau) cũng hiến hai voi trắng. Tháng hai, huyện Đô-lạp hiến voi trắng và công trắng". Xem vậy, VSL không hề chép việc Chiêm-thành hiến voi trắng năm ấy”.
-- Theo tác giả Hoàng Xuân Hãn, Việt sử lược là sách chép rất cẩn thận về những lần sứ của Chiêm Thành sang Đại Việt và Toàn thư có khả năng đã chép lầm lần sứ năm 1068. Vì thế chúng ta cũng đặt câu hỏi về ghi chép của Toàn thư lần đi sứ của Chiêm Thành sang Đại Việt năm 1050, rõ ràng là Việt sử lược không hề chép, có khi nào Toàn thư nhầm lẫn với lần sang cống năm 1047 không ?
-- Theo Việt sử lược thời gian từ năm 1055 đến năm 1065 cứ khoảng 2 tời 3 năm thì Chiêm Thành sang cống, nhưng khoảng thời gian trước đó, từ năm 1044 đến năm 1055 Việt sử lược ghi chép một lần sứ vào năm 1047, có khi nào Việt sử lược chép sót không ?
-- Khoảng thời gian từ năm 1044 đến năm 1065 Việt sử lược thường chỉ chép Chiêm Thành tới cống mà không cho biết cống gì, chỉ riêng năm 1065 thì chép cụ thể hơn là cống con tê trắng. Do đó nếu năm 1047 Chiêm Thành cống voi thì rất có thể Việt sử lược sẽ chép lại, nhưng không thấy chép nên việc cống năm 1050 trong Toàn thư rất khó là do nhầm lẫn với năm 1047.
-- Lại thêm khoảng cách giữa năm 1047 với năm 1050 là 4 năm, rất khó để xảy ra nhầm lẫn, hơn nữa nếu như việc cống năm 1050 được chép trong Toàn thư là nhầm lẫn thì khoảng thời gian Chiêm Thành không sang cống là 8 năm (1047-1055) mà không thấy Thăng Long trách phạt thì cũng rất khó giải thích. Mà nếu như Chiêm Thành có í bỏ cống thì không hiểu vì sao năm 1055 sứ lại sang và những năm tiếp theo giữ lệ rất nghiêm chỉnh ?
-- Vì thế tôi cho rằng: Việt sử lược tuy là sách chép việc cống của Chiêm Thành đầy đủ hơn cả, song cũng không tránh được việc thiếu sót, nên ghi chép của Toàn thư về việc Chiêm Thành cống voi năm 1050 là không bác bỏ được.
-- Lần sứ Chiêm Thành sang Đại Việt cống năm 1047 như ghi chép trong Việt sử lược cho biết: Quốc vương Champa tên là Ung Ni và Thái Tông triều Lý đã đày sứ Champa lên Đăng Châu do Ung Ni không tôn trọng, tôn kính (Việt sử lược chép là Bất Cung). Nhưng không tôn kính ở chỗ nào ?
-- Quốc vương Chiêm Thành lên ngôi sớm nhất cũng sau tháng 8/1044, đến năm 1047 sai sứ sang cống cũng không có gì là bất cung. Toàn thư cũng có chép trường hợp tương tự vào năm 994 dưới thời trị vì của Lê Hoàn như sau “Cháu vua nước Chiêm Thành là Chế Cai vào chầu. Trước đây, nước Chiêm Thành sai Chế Đông dâng sản vật địa phương, vua trách là trái lễ, không nhận. Vua nước đó sợ, mới sai Chế Cai vào chầu”.
-- Việt sử lược chép rất rõ rằng: Vua Chiêm Thành là Ung Ni không tôn kính, chứ không phải là vị sứ giả của Champa vô lễ. Khoảng thời gian từ năm 1044 đến năm 1047 sách sử không chép bất cứ thông tin nào về xung đột lợi ích giữa Việt Chiêm, do đó việc không tôn kính rất có thể xuất phát từ việc Chiêm Thành không sang cống ngay sau khi Quốc vương mới lên ngôi. Thế nhưng việc chậm trễ sang cống hoàn toàn có thể được sứ Champa biện rằng do tình hình nổi loạn tại phương nam, đường xá không thông, hơn nữa sử giả của Champa hoàn toàn có thể nói sai lệch thời gian nhận vương phong của chúa Chiêm, tất nhiên việc đó sẽ rất là mạo hiểm nếu như phương bắc đã biết thời điểm lên ngôi của Ung Ni.
3. Sau chiến thắng tại sông Ngũ Bồ, hẳn Thái Tông cũng nắm được tình hình Phật Thệ, tháng 7/1044 quân phương bắc tiến vào thành mà không gặp sự chống cự nào, tháng 8/1044 Thái Tông rút quân. Trong thời gian chiếm giữ thành Phật Thệ, Việt sử lược cho biết Lý Thái Tông bắt tù các bà vợ và cung nữ của vua Sạ Đẩu, trong khi Toàn thư chép thêm 2 sự kiện đó là “Sai sứ đi khắp các hương ấp phủ dụ dân chúng. Các quan chúc mừng thắng lợi”.
-- Nguyên văn được chép trong Toàn thư là “Khiển sứ biến hành hương ấp phủ luận khiển dân”. Trước hết chúng ta thấy rằng: có những người Chiêm Thành phục vụ dưới quyền của Lý Thái Tông như các sứ giả được gửi đến các hương ấp để phủ dụ, bàn luận, sai khiến dân chúng. Sau cùng Lý Thái Tông không muốn cai trị Chiêm Thành, cũng như không có mưu đồ đóng quân lâu dài tại Vijaya, vậy thì vì sao ngài ấy lại cho sứ đi đến các hương ấp để vỗ về người Champa, trong khi với lực lượng quân sự mạnh vượt trội, người phương bắc hoàn toàn có thể chống trả bất cứ cuộc tấn công nào từ phía người Chiêm [Qua việc tiến vào thành Phật Thệ mà không gặp sự chống lại của người Champa cũng cho thấy vua Sạ Đẩu đã sử dụng hết binh lính trong trận Ngũ Bồ nên quân đội của người Chiêm không còn thế lực nào đáng kể] Lại thêm, khi quân phương bắc tiến vào Vijaya thì không xảy ra tình trạng chém giết cướp bóc tàn phá, rõ ràng là kết quả không phù hợp với cuộc chiến tranh thông thường. Có thể vì sau trận Ngũ Bồ vua Lý đã có lệnh kẻ nào giết bậy người Chiêm Thành thì sẽ giết không tha bởi vua cảm khái trước kết cục xác chất đầy đồng của người Chàm hoặc không ?
-- Nguyên văn trong Toàn thư là quần thần hạ tiệp, nghĩa là bầy tôi dâng lời chúc mừng chiến thắng, việc này cho phép phỏng đoán: trước hết là vua nhà Lý đã cho mở cuộc tiệc rượu tại thành Phật Thệ và sau cùng là trước khi rút quân về bắc, nhà Lý đã hoàn toàn dành thắng lợi trong chiến dịch nam tiến, trong đó có việc sứ giả đi phủ dụ dân chúng tại các hương ấp đã thành công, nói cách khác người Chiêm chịu quy thuận Đại Việt.
 -- Theo như Việt sử lược mục năm 1038 thì vào mùa đông con vua Chiêm Thành là bọn Địa Bà Thích tới chầu. Theo như Toàn thư mục năm 1039 thì vào mùa hạ Chiêm Thành vương tử Địa Bà Lạt, Lạc Thuấn, Sạ Đâu, La Kế, A Thát Lạt ngũ nhân lai phó. Trong những người được liệt kê thì gây được sự chú ý nhất là Sạ Đâu [ ] bởi vị này gợi liên tưởng tới vị chúa Chiêm là Sạ Đẩu [ ]
-- Chúng ta không biết nguồn cội của tên gọi những vị chúa Chiêm của người Việt, nhưng qua sự kiện vua thân phiên dịch nhạc khúc và tiết âm cổ của Chiêm Thành, sai nhạc công ca hát được Việt sử lược chép tại mục năm 1060 cho thấy đã có sự thông dịch trực tiếp giữa Việt Chiêm, nói cách khác những cái tên gọi các vị chúa Chiêm của người Việt rất có thể bắt nguồn từ quan hệ trực tiếp Việt Chiêm mà không có sự tác động từ thực thể thứ ba.
-- Xét tên gọi vị vua Champa sai sứ cống năm 1047. Chữ (Ung) có một nghĩa là Hòa Hợp và một nghĩa khác là Ôm Giữ. Chữ với âm Ni có nghĩa là Sư Nữ, với âm Nật có nghĩa là Thân Gần, với âm Nệ có nghĩa là Ngăn Cản. Dựa vào tình trạng cống sứ dưới thời trị vì của vua Jaya Paramesvaravarman cho phép chúng ta phỏng đoán, người Việt gọi ngài là Ung Nật (hòa hợp thân gần).
Giả thuyết: Trước khi cuộc nam chinh diễn ra, 3 châu Bố Chính, Mi Linh, Địa Lý là những vùng đất mà trên danh nghĩa thuộc về nước Chiêm Thành, nhưng trên thực tế do những thế lực địa phương thân Thăng Long nắm giữ. Loạn tại Chiêm Thành diễn ra, buộc các thế lực thất thế phải lưu vong tại phương bắc, nhân xung đột Thăng Long mưu tính can thiệp vào Chiêm Thành thông qua cuộc nam chinh, trong chiến dịch này, người Việt nhận được sự ủng hộ của một số người Champa. Sau trận Ngũ Bồ quân phương bắc tiến vào chiếm giữ thành Phật Thệ, đồng thời chấp thuận cho Ung Nật lên ngôi vị Rajadiraja (vua của các vua). Để tạo uy tín cho chính quyền của Ung Nật, Lý Thái Tông đã ban lệnh không được tàn phá, giết hại, cướp bóc người Chiêm Thành, đồng thời sai sứ giả đi khắp các hương ấp phủ dụ dân chúng quy thuận chính quyền mới tại Phật Thệ. Cuối cùng, khi chiến dịch hoàn toàn thắng lợi, Lý Thái Tông rút quân về bắc, mang theo những người vợ và cung nữ của chúa Chiêm Sạ Đẩu, quân lính đưa về năm ngàn người Chăm bắt được tại khu vực sông Ngũ Bồ cùng nhiều vàng bác châu báu. Trước khi rút quân, vua nhà Lý có những thỏa thuận với chúa Ung Nật, nhưng vì lý do nào đó, mà Phật Thệ đã không làm đúng đủ giao kèo, do đó Thái Tông triều Lý cho rằng Ung Nật không tôn kính nên đã đày sứ giả sang cống năm 1047 lên Đăng Châu.
-- Tiểu quốc Panduranga [Phan Rang] ở cực nam vương quốc Champa không bị ảnh hưởng nặng nề từ cuộc nam chinh như các tiểu quốc khác, nên sau khi quân phương bắc rút, họ đã đưa một hoàng tử có xuất thân từ miền nam lên làm vua của vương quốc Chiêm Thành. Năm 1050 vua Paramesvaravarman cử người con của em gái là Yuvaraja đem quân đánh Panduranga, theo như mô tả thì dân cư của Panduranga là những kẻ hư hỏng, hung dữ, ngu dốt và luôn nổi loạn chống quốc vương.
4. Tống sử chép: “Tháng 9 năm thứ sáu [1061] (Chiêm Thành) lại cống voi nhà. Tháng giêng năm thứ bảy [1062] Quảng Tây an phủ kinh lược ti tâu “Chiêm Lạp vốn không tập luyện việc binh, lân cận với Giao Chỉ, thường khổ vì bị xâm nhiễu, còn Chiêm Thành gần đây cũng sửa sang võ bị, để chống Giao Chỉ, sắp từ lối Quảng Đông vào kinh sư dâng cống, mong được ân sủng vỗ về”. Tháng 5 thì sứ nước ấy là Đốn Bà Ni tới cống phương vật. Tháng 6 ban tặng cho quốc vương Thi Lí Luật Trà Bàn Ma Thường Dương Phổ (施里律茶槃麻常楊溥) một con bạch mã, theo vậy. Năm đúng như lời xin Hi Ninh nguyên niên [1068] Quốc vương là Dương Bốc Thi Lị Luật Đà Bàn Ma Đề Bà (楊卜尸利律陀般摩提婆) sai sứ cống phương vật, xin được mua ngựa trạm. Chiếu ban cho bạch mã một con, sai mua la ở Quảng Châu đem về” [Bản dịch của dịch giả Châu Hải Đường]
Tống hội yếu tập cảo chép: “Nguyên tác Luật Luật, cứ Tống sử quyển tứ bát cửu san”.
Sách Le Royaume De Champa của M. Georges Maspero viết: “Người kế vị của Jaya Paramesvaravarman I là Bhadravarman III, chỉ được biết đến thông qua người em trai của ngài Rudravarman III. Ngài lên ngôi năm 1060 hoặc đầu năm 1061 và đã gửi cống nạp tới hoáng đế Trung Hoa voi nhà. Cuối năm [1061] chứng kiến sự xuất hiện của Rudravarman III, người có lẽ không lạ gì với sự mất tích của anh trai mình”.
Ghi chú 2 viết: “Po-nagar de Nha Trang. Che-li Lu-t’ou p’an-mo chang yang pou 施里律茶槃麻常楊溥 (Crĩ Rudravarman sam yan po) et [và] Yang pou Che-li Lu-t’o-p’an-mo ti p’o 楊卜尸利律陀般摩提婆 (Yan pu Crĩ Rudra-varmadeva). Người An Nam gọi là Đệ Củ”.
-- Theo tác giả Maspero thì Bhadravarman kế vị Paramesvaravarman có thể là từ năm 1060 hoặc đầu năm 1061 đến cuối năm 1061 người em trai của ngài là Rudravarman đã nhận vương phong. Maspero có nếu 2 tài liệu gồm: thứ nhất là bi ký tại ngôi đền Po-Nagar, thế nhưng bi ký tại ngôi đền lại đề cập năm 986 của lịch Saka (năm 1064) và thứ hai là ghi chép của Tống sử.
-- Có thể trên cơ sở ngôn ngữ mà tác giả Maspero cho rằng Thi Lí Luật Trà Bàn Ma Thường Dương Phổ và Dương Bốc Thi Lị Luật Đà Bàn Ma Đề Bà là 2 tên gọi của Rudravarman. Theo như Tống hội yếu tập cảo thì nguyên văn là Thi Lí Luật Luật Trà Bàn Ma Thường Dương Phổ.
-- Theo như Việt sử lược thì sau tháng 8/1059 Chiêm Thành tới cống, nhưng sau tháng 10/1060 Chiêm Thành lại sang cống. Trong khoảng thời gian cống nạp từ năm 1044 đến năm 1065 thì 2 năm cống 1059 và 1060 là không tuân theo lệ khoảng 2 tới 3 năm sẽ phải tới cống. Như vậy xác định của tác giả Maspero về thời điểm Bhadravarman lên ngôi là có căn cứ, dựa vào Việt sử lược chúng ta có thể đặt lại giới hạn năm Paramesvaravarman mất là 1059 hoặc 1060.
-- Nhưng xem An Nam truyện trong Tống sử thì sẽ nhận ra đặc điểm rằng: sách thường chép rõ tên gọi của vị vua Chiêm Thành khi ngài lần đầu sai sứ sang cống phương bắc, trong khi lần sứ tháng 9/1061 không thấy chép tên của quốc vương Chiêm Thành nên có khả năng người sai sứ sang phương bắc cống nạp là Paramesvaravarman. Năm sau 1062, tên gọi của vị quốc vương Chiêm Thành đã được chép lại và khoảng thời gian đi sứ của Chiêm Thành sang phương bắc thực sự là gây chú ý, cụ thể tháng 9/1061 và tháng 1/1062, chỉ cách nhau có 6 tháng, việc này cho phép phỏng đoán thời điểm Ung Nật mất khá gần tháng 9/1061 [Nếu đi từ phương bắc xuống phương nam thì thường khởi hành vào mùa xuân vì mượn gió bắc, ngược lại nếu đi từ nam lên bắc thì thường khởi hành vào mùa hạ vì mượn gió nồm].
-- Nếu Ung Nật mất gần thời điểm tháng 9/1061 thì vị chúa Chiêm Thành sai sứ cống nạp năm 1062 nên là Bhadravarman hoặc Bhadravarman tại vị trong thời gian rất ngắn, không đủ thời gian giao thiệp với ngoại quốc. Vào thời điểm Ung Nật còn tại vị, người cháu của ngài là Yuvaraja rất có quyền thế. Trong sách Vương quốc Champa tác giả Lafont gọi ngài là vị hoàng tử nối ngôi. Có khi nào sau cái chết của Paramesvaravarman, Bhadravarman được truyền ngôi chính thức nên đã xảy ra xung đột với các thế lực chống đối trong đó có Yuvaraja và kết thúc là sự biến mất của Bhadravarman. Theo như bi ký do Rudravarman dựng thì ngài rất tự hào là người thuộc gia đình vua Paramesvaravarman và có người anh trai là vua Bhadravarman, xem thế mối quan hệ giữa 3 vị chúa Chiêm Thành là khá tốt.
-- Nhưng dù vị chúa Chiêm Thành sai sứ cống phương bắc năm 1062 và năm 1068 là một người hay hai người thì vẫn có thể chắc chắn một điều, đó là chính thể nối tiếp chính thể do Ung Nật lãnh đạo có xu hướng kháng Giao Chỉ. Từ lần cống năm 1062, người Chiêm đã cho Tống triều biết ý chí cũng như sự chuẩn bị của họ trong việc kháng Giao Chỉ và tất nhiên họ đề nghị sự giúp đỡ từ phía thiên triều.
-- Nhận biết được mối nguy hai đầu, bắc với Tống nam với Chiêm, Lý triều dự toán tấn công Chiêm Thành với mục đích ra uy quân sự, cảnh báo người Tống nếu để xảy ra xung đột. Toàn thư cho biết “Mùa xuân tháng 2, vua thân đi đánh Chiêm Thành, bắt được vua nước ấy là Chế Củ và dân chúng 5 vạn người. Mùa hạ tháng 6 đem quân về. Mùa thu tháng 7, vua từ Chiêm thành về đến nơi, dâng tù ở Thái Miếu, đổi niên hiệu là Thần Vũ năm thứ nhất. Chế Củ xin dâng ba châu Địa Lý, Ma Linh, Bố Chính để chuộc tội. Vua bằng lòng, tha cho Chế Củ về nước”.
-- Chi tiết cuộc nam chinh năm 1069 xin xem sách Lý Thường Kiệt. Lịch sử ngoại giao và tống giáo triều Lý của học giả Hoàng Xuân Hãn.
-- Sau khi đánh thắng người Chiêm, Lý Thánh Tông dâng biểu lên phương bắc, như lời cảnh báo về sức mạnh quân sự của Thăng Long, vào thời gian trị vì của Lý Thái Tông và Lý Thánh Tông, tình hình biên giới Tống Việt luôn căng thẳng.
-- Ba châu Bố Chính, Ma Linh, Địa Lý về danh nghĩa thuộc Chiêm Thành nhưng trên thực tế thuộc kiểm soát của người Việt, sau sự kiện dâng 3 châu của Chế Củ vào tháng 7/1069 thì hoàn toàn thuộc về Đại Việt.
-- Lý Thánh Tông đã đánh thắng người Chiêm, hoàn toàn có thể thu 3 châu Địa Ma Bố vào cương thổ Đại Việt, nhưng phương bắc lại thả Chế Củ. Rõ ràng cái mà Thánh Tông muốn là một chính thể tại phương nam thân với Thăng Long và không lựa chọn nào tốt hơn vị chúa đã bị Thăng Long đánh bại. Chế Củ còn đủ thế lực và danh vọng để kiểm soát Chiêm Thành nhưng lại không đủ nhuệ khí để gây sự với Đại Việt. Nếu Chế Củ tại vị thì 3 châu Địa Ma Bố thuộc về Đại Việt theo cách chính danh, nhưng nếu chính thể chống đối với Thăng Long nắm quyền điều hành Chiêm Thành thì người Việt chẳng qua chỉ là kẻ cướp đất của Champa và hoàn toàn có thể dâng tấu tố lên thiên triều. Rõ ràng Lý Thánh Tông đã tính toán rất kỹ.
-- Chúng ta đã thấy sự thay đổi thái độ của người đứng đầu vương quốc Champa đối với Thăng Long. Nếu như Paramesvaravarman hòa thuận bao nhiêu thì Rudravarman cứng rắn bấy nhiêu, do đó nó cho phép chúng ta phỏng đoán chính quyền của Ung Nật thân với Thăng Long.
Ghi chú:
1. Người viết không biết nghĩa của Icvaras, thấy trong bài Ghi chú về hai tấm bia Champa của tác giả George Coedès do dịch giả Hà Hữu Nga chuyển ngữ viết: “Vào năm çaka 811, vào lúc (được đánh dấu bởi) các vị chúa tể [Īçvaras = Rudras] và hợp thân Shiva, đức vua Çrï Parameçvaravarmadeva, thuộc dòng dõi Uroja, vua čakravartin tại xứ Champa này, học sỹ Rājakula”.
2. Người viết xin bàn thêm về vị quốc vương sai sứ sang cống thiên triều năm 1062. Xem ghi chép của Tống hội yếu thì sách ấy viết về năm cống 1062 và năm cống 1068 có cấu trúc giống nhau gồm: Sứ Chiêm Thành (chép rõ tên sứ) sang cống và Chiếu ban cho quốc vương (chép rõ tên gọi). Tống sử chép sai khác, cụ thể cấu trúc ghi chép của năm sứ 1062 giống với Tống hội yếu (còn các chi tiết cụ thể thì sai khác) trong khi cấu trúc của năm sứ 1068 không giống với Tống hội yếu, cụ thể cấu trúc trong Tống sử là Quốc vương Chiêm Thành (chép rõ tên xưng) sai sứ sang cống và Chiếu ban cho. Rõ ràng là năm sứ 1068 cấu trúc giữa Tống sử và Tống hội yếu đã ngược nhau. Tống hội yếu đều chép lại 2 chiếu vào năm 1062 và 1068, mà đã là chiếu thì hiển nhiên tên xưng của người nhận chiếu phải được viết đến, trong khi Tống sử chỉ chép là chiếu cho quốc vương mà không nêu rõ tên của vị quốc vương đó, vì thế ít nhất là Tống sử đã thay đổi 1 đặc điểm trong cấu trúc (từ việc chép rõ tên xưng thành không chép tên xưng). Quan trọng hơn cả là cấu trúc mà Tống sử dùng để chép về năm sứ 1068 trở nên rất phổ biến trong Chiêm Thành truyện, cấu trúc Năm - Quốc vương Chiêm Thành - Tên xưng - Sai - Tên sứ - Sang cống về cơ bản thường được sử dụng để chép việc vị quốc vương mới của Chiêm Thành lần đầu tiên sai sứ sang cống thiên triều, do vậy tôi cho rằng: Dương Bốc Thi Lị Luật Đà Bàn Ma Đề Bà là Rudravarman và năm 1068 là lần đầu ngài sai sứ sang cống Đại Tống, nói cách khác Thi Lí Luật Luật Trà Bàn Ma Thường Dương Phổ là Bhadravarman. Theo bia ký tại ngôi đền Po-Nagar thì năm 1064 thuộc thời gian trị vì của Chế Củ và người anh trai của ngài là Bhadravarman trị vì từ (sớm lắm là giữa) năm 1061 đến (muộn lắm là giữa) năm 1063.
3. Người viết xin được cảm ơn tác giả Nguyễn Quang Toản đã hỗ trợ tài liệu Ancient Indian Colonies In The Far East của Ramesh Chandra Majumdar và những chỉ dẫn cần thiết.


Thứ Sáu, 16 tháng 11, 2018

VỆ VƯƠNG ĐINH TOÀN

Toàn thư chép: Hoàng thứ tử Đinh Toàn sinh năm 974, đến năm 978 được phong làm Vệ Vương, Hạng Lang được phong làm Hoàng thái tử.
* Theo ngài Tạ Chí Đại Trường thì Vệ Vương là chức vương phù trợ và vì Toàn được phong Vệ Vương đồng thời với Hạng Lang, nên ngài Tạ Chí Đại Trường cho rằng Hạng Lang và Toàn là anh em cùng mẹ.
Toàn thư chép: Mùa đông năm 979 Đinh Bộ Lĩnh và Đinh Liễn bị Đỗ Thích giết hại, Thập đạo tướng quân Lê Hoàn và bọn Đinh Điền, Nguyễn Bặc rước Vệ Vương lên ngôi hoàng đế. Mùa thu năm 980 quần thần mời Lê Hoàn lên ngôi hoàng đế, giáng Đinh Toàn làm Vệ Vương. Năm 1001 Lê Hoàn đánh giặc ở Cự Long [Thanh Hóa] Vệ Vương trúng tên, chết trận. Lê Đại Hành khêu trời 3 tiếng.
Việt sử lược chép sai khác vài sự kiện. Thứ nhất Đinh Toàn được phong Vệ Vương vào năm 972. Thứ hai Vệ Vương là con thứ, Hạng Lang là con út.
Theo cột đá do Đinh Liễn khắc tại Ninh Bình thì năm 973 Hạng Lang đã tranh ngôi với Nam Việt Vương, vậy Đinh Đính phải trưởng thành rồi. Lại theo Tống sử thì Toàn còn nhỏ tuổi --> vậy Toàn là con bà trưởng, còn Hạng Lang là con bà thứ, nên Vệ vương là chức vương phù trợ cho Đinh Liễn chứ không phải cho Hạng Lang. Toàn thư cho biết năm 972 Bộ Lĩnh sai Liễn đi sứ phương bắc, phải chăng đề phòng biến loạn khi Liễn vắng mặt tại Giao Châu nên Tiên Hoàng phong cho em trai của Liễn làm Vệ Vương ?
Toàn là em trai của Liễn mà năm 968 Liễn đã cùng cha đánh trận rồi, vậy Liễn lúc đó cùng phải 20 tuổi, lúc sinh Liễn bà Dương thị cũng phải khoảng 15 tuổi, nên đến khi Bộ Lĩnh chết Đại Thắng Minh hoàng hậu khoảng 20 + 15 + 10 = 45 tuổi --> chắc sử gia nhầm giữa 2 bà họ Dương là Đại Thắng Minh hoàng hậu (vợ của Bộ Lĩnh) với Đại Thánh Minh hoàng hậu (vợ của Lê Hoàn). Mà không chỉ có Bộ Lĩnh và Lê Hoàn lấy vợ họ Dương, trước sau có Ngô Quyền và Lý Công Uẩn cũng lấy người họ Dương.
Năm 993 Lê Hoàn được phong Giao Chỉ quận vương, cùng năm ngài lên ngôi hoàng đế, lúc này Đinh Toàn khoảng hơn 20 tuổi. Xem Toàn thư và Việt sử lược sẽ nhận ra 3 khoảng thời gian liên quan tới việc xưng đế của Lê Hoàn và cái chết của Đinh Toàn.
Khoảng 980-995 Đại Việt yên ổn. Khoảng 995-1001 các thủ lĩnh ở khắp nơi nổi lên chống Hoa Lư. Khoảng 1001-1005 Đại Việt lại yên. Chi tiết: năm 996 đánh bốn động Đại, Phát, Đan, Ba ở Ma Hoàng. năm 997 đánh giặc ở Đỗ Động Giang. năm 999 đánh Hà Động. năm 1000 đánh giặc ở châu Phong là bọn Trịnh Hàng, Trường Lệ, Đan Trường Ôn. năm 1001 đánh giặc Cử Long.
Tống sử chép: năm 995 Trương Quán tấu lên triều đình là nghe phong thanh rằng Lê Hoàn bị họ Đinh đuổi đi, Tống Thái Tông lệnh dò xét, thì bọn Trần Sĩ Long cũng nói như Trương Quán. Sau khi Đinh Toàn chết trận năm 1001, sử sách không ghi chép một cuộc chống Hoa Lư nào nữa
-----> Nên đặt giả thuyết rằng: sau khi cha và anh bị chết, Đinh Toàn được Lê Hoàn và Nguyễn Bặc rước lên làm vua, Lê Hoàn làm phó vương, đến năm 993 Hoàn có đủ điều kiện để làm hoàng đế nên đã phế Đinh Toàn làm Vệ Vương. Theo lẽ tự nhiên Đinh Toàn chống lại và kêu gọi sự ủng hộ của các thủ lĩnh địa phương, chiến sự kéo dài từ năm 995 đến 1001, năm Toàn chết.
P/S: Toàn chạy về Cự Long (Thanh Hóa) có lẽ đó là quê bà Dương thái hậu chăng ? Liệu bà Dương hậu này có mối quan hệ nào với Dương Đình Nghệ không ? Kiểu như Ngô Quyền ấy ?

TRẦN TRIỀU TỒN NGHI (ÍCH TẮC - TRẦN XÁN - QUANG XƯỞNG - AN TƯ - THỦ ĐỘ)


1. Chiêu Quốc vương Trần Ích Tắc
Toàn thư chép: “Ất Dậu [1285] Tháng 2 ngày giáp thìn mồng 1, con thứ của Tĩnh Quốc Đại Vương Quốc Khang là thượng vị Chương Hiến hầu [Trần] Kiện và liêu thuộc là bọn Lê Trắc đem cả quân đầu hàng quân Nguyên (…) Tháng 3, ngày giáp tuất mồng 1 hai vua bỏ thuyền đi bộ đến Thuỷ Chú. Lấy thuyền ra sông Nam Triệu (tức huyện Thuỷ Đường) vượt biển Đại Bàng vào Thanh Hóa. Thượng vị Văn Chiêu hầu [Trần ] Lộng đầu hàng Thoát Hoan. Kế đó, Chiêu Quốc Vương Trần Ích Tắc và bọn Phạm Cự Địa, Lê Diễn, Trịnh Long đem gia thuộc đầu hàng quân Nguyên” [Bản dịch của Viện khoa học xã hội Việt Nam]
An Nam chí lược chép: “Ngày đinh tị mồng 3, Trấn Nam vương đánh phá quân vua Trần tại sông Đại Hoàng. Tôn tử là Văn Nghĩa hầu Trần Tú Tuấn suất cả nhà ra đầu hàng (…) Ngày 15 mậu tí, em thế tử là Chiêu Quốc vương Trần Ích Tắc suất cả môn thuộc nội phụ” [Bản dịch của Viện Đại Học Huế 1961]
- Các sách sử chép khá rõ thứ tự ra hàng quân phương bắc như sau: đầu tiên là Chương Hiến hầu Trần Kiện, thứ đến là Văn Nghĩa hầu Trần Tú Viên và Chương Hoài hầu Trần Văn Lộng, sau cùng là Chiêu Quốc vương Trần Ích Tắc.
Toàn thư chép: “Trước kia, khi Ích Tắc chưa sinh. Thái Tông mộng thấy thần nhân ba mắt từ trên trời xuống nói với Thái Tông: "Thần bị thượng đế quở trách, xin thác sinh là con vua, sau lại trở về phương Bắc". Đến khi Ích Tắc sinh, giữa trán có vài vết lờ mờ như hình con bắt, hình dáng giống hệt người trong mộng. Đến 15 tuổi, thông minh hơn người, làu thông kinh sử  và các thuật, vẫn còn có ý tranh đoạt ngôi trưởng đích. Ích Tắc đã từng gửi thư riêng cho khách buôn ở Vân Đồn xin quân Nguyên xuống nam. Đến nay, người Nguyên vào cướp, Ích Tắc xin hàng chúng để mong được làm vua. Người Nguyên phong làm An Nam Quốc Vương”.
An Nam chí lược chép: “Trần Ích Tắc con thứ 5 của Thái vương, thông minh tuấn tú, có tính hiếu học. Lúc ở nước nhà được phong tước Chiêu Quốc vương, kiêm chức đại tướng quân, trấn giữ lộ Đà Giang (…) Tháng 4 năm sau [1329] Ích Tắc qua đời, hưởng thọ 76 tuổi, an táng tại núi Hạ Gia, đất Hán Dương”.
- Nguyên văn trong Toàn thư là “Thường hiệp tư thư ký Vân Đồn thương khách, khất Nguyên sư Nam hạ”. Thường [] có nghĩa là Đã Từng. Cứ theo câu chữ thì Chiêu Quốc vương đã từng gửi thư cho người phương bắc xin đem quân xuống phương nam.
- Nguyên văn trong Toàn thư là “Niên thập ngũ, thông minh quá nhân, thông thư sử, cập chư kĩ thuật, tiềm hữu đoạt đích chi tâm”. Tiềm Hữu [ ] theo tôi nên hiểu là Ngầm Có. Nên vào thời điểm người Nguyên Mông xuống phương nam không biết Chiêu Quốc vương có còn ý tranh đoạt ?
Toàn thư chép: “Đinh Mão [1267] Tháng 5, phong em là Ích Tắc làm Chiêu Quốc Vương. Ích Tắc là con thứ của Thượng hoàng, thông minh hiếu học, thông hiểu lịch sử, lục nghệ, văn chương nhất đời (…) Mậu Thìn [1268] Mùa xuân tháng giêng, vua từng nói với tôn thất rằng: "Thiên hạ là thiên hạ của tổ tông, người nối nghiệp của tổ tông phải cùng hưởng phú quý với anh em trong họ. Tuy bên ngoài có một người ở ngôi tôn, được cả thiên hạ phụng sự, nhưng bên trong thì ta với các khanh là đồng bào ruột thịt. Lo thì cùng lo, vui thì cùng vui. Các khanh nên truyền những lời này cho con cháu để chúng đừng bao giờ quên, thì đó là phúc muôn năm của tông miếu xã tắc". Đến đây, xuống chiếu cho các vương hầu tôn thất, khi bãi triều thì vào trong điện và lan đình. Vua cùng ăn uống với họ. Hôm nào trời tối không về được thì xếp gối dài, trải chăn rộng, kê giường liền cùng ngủ với nhau để tỏ hết lòng yêu quý nhau. Còn như trong các lễ lớn như triều hạ, tiếp tân, yến tiệc thì phân biệt rõ ngôi thứ, cấp bậc cao thấp. Vì thế, các vương hầu thời ấy không ai là không hòa thuận, kính sợ và cũng không phạm lỗi khinh nhờn, kiêu căng”.
- Theo như An Nam chí lược thì Trần Ích Tắc sinh năm 1254, đến năm 1267 được phong làm Chiêu Quốc vương, vào năm 1268 Tắc 15 tuổi. Nhưng tháng giêng năm mậu thìn Thánh Tông Trần Hoảng ban chiếu với nội dung vỗ về anh em trong họ. Nên tôi cho rằng thời điểm Chiêu Quốc vương có ý tranh đoạt ngành đích là khi ngài khoảng 15 tuổi. Hoàn toàn phù hợp với chữ Thường mà Ngô sử gia đã dùng.
Toàn thư chép: “Canh Ngọ [1330] Tá thánh thái sư Chiêu Văn Đại Dương Nhật Duật mất (thọ 77 tuổi) (…) Cuối niên hiệu Thiệu Bảo [1279-1285] ông giữ trại Thu Vật ở Tuyên Quang. Giặc Hồ vừa xâm phạm bờ cõi, Chiêu Quốc tâu với vua rằng: "Chiêu Văn ở Tuyên Quang, chắc ở trên đó gọi giặc sang rồi" (Nhật Duật thích chơi với người Tống nên Chiêu Quốc nói thế). Khi Tuyên Quang thất thủ, Nhật Duật thuận dòng rút về xuôi”.
Bài ký chuông Thông Thánh quán ở Bạch Hạc viết: “Cuối đông năm Giáp Thân [1284] giặc bắc đến xâm lược, bấy giờ Khai Quốc vương trấn thủ các châu lộ Tuyên Quang” [Bản dịch của Đinh Khắc Thuân]
- Theo như Toàn thư thì khi giặc phương bắc xâm phạm bờ cõi vào cuối mùa đông năm 1284, Chiêu Quốc vương đã tấu với Thánh Tông rằng “Chiêu Văn gọi giặc sang rồi”. Thứ nhất lời tấu của Ích Tắc chắc chắn phải xảy ra sau khi triều đình nhận được tin giặc Hồ xâm phạm và thứ hai qua lời tấu của Chiêu Quốc cho thấy Ích Tắc nghĩ Chiêu Văn đã làm phản.
- Ngô sử gia cho biết thêm, vì Chiêu Văn thường qua lại với người Tống nên khi giặc Hồ xâm phạm, Chiêu Quốc đã cho rằng Nhật Duật làm phản, do đó chúng ta có thể khẳng định vào thời điểm người phương bắc xâm phạm lãnh thổ Chiêu Quốc vương Trần Ích Tắc chưa có ý định làm phản.
- Xem lời tầu của Chiêu Quốc đối với Thánh Tông về Chiêu Văn không phải không có cơ sở, bởi vì Ích Tắc giữ lộ Đà Giang còn Chiêu Văn giữ trại Thu Vật. Như thế Chiêu Văn phía trước còn Chiêu Quốc phía sau.
An Nam chí lược chép: “Gửi thân qua chầu triều, đã bỏ phe nghịch mà quy thuận (…) An Nam quốc vương Trần Ích Tắc biết sợ mạng trời mà thờ nước lớn (…) tự nguyện đến hàng”.
Sách Trần Nhân Tông con người và tác phẩm của tác giả Lê Mạnh Thát viết: “ Vi thần liền trốn ở góc biển, lâu ngày bị bệnh tật, đường sá xa xôi, thủy thổ khó khăn. Mạng sống tuy liên hệ với số trời, nhưng tình người thì lại rất sợ chết mất. Thêm vào đó, đại quân đã lắm lần chinh phạt, giết cướp lại nhiều. Anh em không kẻ hiền lương, dựng chuyện tâu sàm không ít. Trước đây, quốc thúc Di Ái rõ ràng trốn mất ở ngoài biên cảnh, bèn trở ngược vu cáo thần là đã làm việc chuyên giết. Lại người em giữa Ích Tắc tự đem mình đến trước đại quân xin vái đầu hàng. Ấy là muốn đến trước để lập công cho mình. Huống nữa là những người đến thay mà tâu bày, thì lại càng thêm ngoa dối. Vi thần thập tử chứ không có một chút sống nào” [Tờ biểu tháng tư năm Chí Nguyên thứ 25]
An Nam chí lược chép: “Nội phụ An Nam quốc công Thiện Lạc lão nhân. Xuất Quốc. Bỏ nước ra đi nhớ tự ngày – Lòng trung cánh cánh có trời hay – Chẳng qua Vi Tử buồn Ân mất – Há phải Văn Công trốn nước ngoài – Nghề mọn cơ cầu noi nghiệp trước – Tiếng thơm sử sách để sau nầy”.
Ghi chú của người dịch: “Vi Tử là anh của vua Trụ nhà Ân. Vua Trụ hoang dâm, Vi Tử can ngăn không được, bèn bỏ đi. Văn Công là công tử nhà Tấn, bỏ trốn trong lúc nước có nạn, sau về phục quốc. Chữ cơ cầu dùng chỉ nối nghiệp cũ của ông cha”.
- Qua các thông tin trong sách sử như “sợ mạng trời, bỏ phe nghịch mà quy thuận, xin đầu hàng để lập công trước” thì rõ ràng là khi quân phương bắc vào xâm chiếm, Chiêu Quốc vương chưa phản lại Thánh Tông. Nhưng khi chiến sự xảy ra, Trần Hoảng liên tục thua trận. Ban đầu là trận Nội Bàng, thứ đến là trận Vạn Kiếp, tiếp theo là trận Đại Hoàng, cuối cùng khi Thánh Tông buộc phải chạy trốn vào Thanh Hóa, thì Ích Tắc mới trở giáo ra hàng.
- Có rất nhiều nhận định về sự kiện Chiêu Quốc vương hàng người Nguyên cũng như con người Trần Ích Tắc theo thời gian, người viết xin không bàn thêm mà chỉ muốn nêu đoạn sử trong Toàn thư mục năm 1293 như sau “Ích Tắc là chỗ tình thân cốt nhục, tuy trị tội cũng thế, nhưng không nỡ đổi họ xóa tên, chỉ gọi là Ả Trần, có ý chê hắn hèn nhát như đàn bà vậy”. Nếu đem đặt cùng Chiêu Văn thì đúng là khác nhau.
2. Chiêu Đức vương Trần Xán
Nguyên sử viết: “Tháng tám [1284] em Nhật Huyên là Chiêu Đức vương Trần Xán gửi thư đến Kinh Hồ Chiêm Thành hành sảnh, tự nguyện nạp khoản quy hàng” [Bản dịch của Châu Hải Đường]
Ghi chú của người dịch: Có lẽ Trần Xán ở đây chính là Chiêu Quốc vương Trần Ích Tắc. TB.BK.q5 chép việc Trần Ích Tắc “từng gửi thư riêng nhờ bọn lái buôn ở Vân Đồn xin nhà Nguyên đem quân xuống nước Nam”.
- Trên chúng ta đã đưa ra những bằng chứng cho thấy khi quân Nguyên Mông xâm phạm lãnh thổ nước Nam, Trần Ích Tắc chưa có ý định làm phản Thánh Tông nên Trần Xán không phải là Chiêu Quốc vương.
An Nam chí lược chép: “Trần Trọng Vy tự là Trí Quảng, người Thụy Châu, thi đậu khoa Mậu Tuất [1238] niên hiệu Gia Hy đời Tống Lý Tông [1225-1264] Năm Bính Tí [1276] niên hiệu Chí Nguyên [1264-1294] nhà Nguyên, quan quân vào bắt ấu chúa, cả nước đều quy thuận, hai vua chạy xuống phía nam, Trọng Vy từ Quỳnh Châu vào yết kiến, đến Quảng Châu được cử làm Lại bộ thượng thư (…) Nhà Tống mất, Trọng Vy chạy vào An Nam, rất được vua Trần Thánh Tông trọng đãi (…) Ở An Nam được vài năm thì mất, Tăng Uyên Tử vãn một bài thơ rằng: Giang Nam chim một cặp – Gãy cánh tựa nước nhau (…) Sau quốc đệ nước An Nam là Trần Thôi bị tội, lén khiến con của Trọng Vy là Trần Văn Tôn qua Trung Quốc đánh An Nam. Mùa đông năm giáp thân, đại binh qua đánh nước An Nam, Trấn Nam vương cho Trần Văn Tôn làm thiên hộ để dẫn đường. Vua Thánh Tông nhà Trần cả giận, khiến bổ quan tài Trọng Vy”.
- Chữ Thôi [ ] và chữ Xán [ ] được sử dụng tương tự như từ ghép Thôi Xán [ ] đều mang nghĩa Ánh Sáng Ngọc. Lại thêm, Trần Thôi và Trần Xán đều là em trai của Nhật Huyên, cũng như đều gửi thư cho người Nguyên xin nam hạ. Nên tôi cho rằng Chiêu Đức vương còn tên khác là Trần Thôi.
- Theo An Nam chí lược thì Trần Thôi lén sai Trần Văn Tôn đem thư sang Kinh Hồ Chiêm Thành hành sảnh chứ không phải gửi lái buôn tại Vân Đồn. Vì thế Chiêu Đức vương không phải là Trần Ích Tắc.
Toàn thư chép: “Quý Mùi [1283] Tháng 2, trị tội thượng vị hầu Trần Lão, cho Lão chuộc tội một ngàn quan tiền, đồ làm lính, lăng trì tên Khoáng là gia nô của Lão ở chợ Đông, vì tội làm thư nặc danh phỉ báng nhà nước”.
Bài Ả Trần, Mai Kiện, Hồi Hột - Phía khuất của Sử-được-kí do tác giả Tạ Chí Đại Trường viết: “Tước Thượng vị hầu chứng tỏ Trần Lão là con một bà Phi theo thứ tự sắp xếp năm 1241. Lê Tắc nhắc đến một người bị tội, cầu cứu quân Nguyên, tên Trần Thôi là “quốc đệ” theo cách nhìn từ phía Nguyên là em (thượng hoàng) Thánh Tông, hẳn là Trần Lão của sử Việt, chắc tên riêng bị bỏ, chỉ còn là thằng cha - già - lão Trần”.
- Tác giả Tạ Chí Đại Trường cho rằng Trần Thôi trong An Nam chí lược là Trần Lão trong Toàn thư. Tuy nhiên Trần Thôi giữ tước vương trong khi Trần Lão giữ tước hầu nên tôi cho rằng Chiêu Đức vương không phải là Trần Lão.
An Nam chí lược chép: “Tăng Uyên Tử tự là Quảng Trưng, người Vũ Châu, thi đậu khoa Canh Tuất [1250] niên hiệu Thuần Hữu [1241-1252] đời Tống Lý Tông (…) cho làm Lâm An phủ doãn, coi việc tham chính phủ (…) Niên hiệu Chí Nguyên năm Bính Tí, đại binh vào Hàng Châu, ấu chúa nhà Tống ra hàng, nhị vương vượt biển đến Quảng Châu, Uyên Tử yết kiến, được cho làm Quảng Tây tuyên úy sứ, kiêm quản Lôi Châu (…) Uyên Tử chạy qua An Nam, rất được Trần Thái Vương trọng đãi. Mùa đông năm giáp thân, niên hiệu Chí Nguyên, đại binh vào An Nam, Uyên Tử đem chúng qui phục”.
An Nam chí lược chép: “Tắc có giao du với người bạn văn học tên Chu Khởi, người ở Mân Trung. Nguyên trước Chu Khởi cùng tôi nhà Tống là Tăng Uyên Tử di cư qua An Nam, sau theo Chương Hiến hầu quy thuận”.
Nguyên sử chép: “Nhật Huyên trốn chạy, truy đuổi đến cửa biển Giao Hải thì không tìm được nữa. Người trong tôn tộc là Văn Nghĩa hầu, cùng cha là Vũ Đạo hầu, con là Minh Trí hầu, con rể là Chương Hoài hầu và Chương Hiến hầu; quan cũ nhà Tống là Tăng tham chính, con trai Tô thiếu bảo là Tô Bảo Chương, con trai Trần thượng thư là Trần Văn Tôn cùng nối nhau dẫn quân ra hàng”.
Trần Tú Viên thần đạo bi viết: “Họ Trần được nước, truy hiệu Thắng làm Thái Tổ, Thẩm làm An Quốc Vương. Con của Thẩm là Túc Kính làm Vũ Đạo vương. Vũ Đạo vương lấy Trình thị, sinh 3 người con trai, ông là con trưởng, húy là Tú Viên, được phong làm Văn Nghĩa hầu (...) Trấn Nam vương đem đại quân tiến vào biên giới, Nhật Huyên giữ chỗ hiểm để chống cự, nhiều lần bị thua. Vương qua sông, bắt tù tại cung điện Nhật Huyên. Con em của ông bèn trình với Vũ Đạo rằng nhà Nguyên đang hưng thịnh, vạn quốc thần phục, nhà ta không sợ mệnh trời mà chống cự, thật là việc làm nghiêng đổ tông miếu, tàn hại sinh dân, ai là người sẽ chuyển họa thành phúc, ôm đồ tế khí mà bảo tồn miếu thờ tổ tiên, Vũ Đạo nghe theo, bèn xin hàng”.
- Theo như sách sử thì vào ngày 28/01 (05/03/1285) Hưng Đạo vương xin thượng tướng thái sư Trần Quang Khải đem quân vào Nghệ An. Ngày 01/02 (08/03/1285) Chương Hiến hầu Trần Kiện giữ Thanh Hóa ra hàng quân Nguyên. Ngày 02/02 (09/03/1285) Giảo Kỳ vượt sông Vệ Bố phá quân Trần, giết 2 tướng Đinh Xa và Nguyễn Tất Dũng.
- Sách An Nam chí lược chép rằng Trần Kiện là con của Tịnh Quốc vương, thay cha lĩnh chức Tịnh Hải quân tiết độ sứ, cưới con gái của thái sư Chiêu Minh vương là nàng Quỳnh Huy. Chương Hiến thượng hầu vì có hiềm khích với con trai của Thánh Tông là Tá Thiên vương nên giả học đạo Trang Lão, ẩn cư tại làng Nhân Mục. Sau khi Thánh Tông được tin Chiêu Văn vương thua tại Diễn Châu, nên hoảng hốt không tính được kế gì bèn khởi phục Trần Kiện sai đem quân cự Toa Đô, nhưng do sức yếu lại không có viện binh nên Chương Hiến hầu cùng vài vạn người dâng binh khí xin hàng. Như thế rõ rằng Trần Kiện không có ý định xin người Nguyên nam hạ.
- Theo như sách sử thì ngày 03/02 (10/03/1285) Trấn Nam vương đánh bại Thánh Tông tại sông Đại Hoàng. Vũ Đạo hầu, Văn Nghĩa hầu, Minh Trí hầu, Chương Hoài hầu ra hàng.
Bia ma nhai trên núi Cô Phong viết: “Đời vua thứ 2 nhà Trần, có một người tu hành từ phía nam tới, thiền sư mở tiệc trên núi Cô Phong, nhờ ân huệ của An Quốc đại vương, lại mở ra nham Bảo Phúc, cho mãi mãi thờ cúng” [Bản dịch trong sách Văn bia thời Lý Trần của Lâm Giang - Phạm Văn Thắm - Phạm Thị Thoa]
- Theo Toàn thư mục năm 1264 thì An Quốc vương là anh trai của Trung Vũ vương Trần Thủ Độ, theo mộ bia của Trần Tú Viên thì An Quốc vương có tên là Thẩm, có con trai là Vũ Đạo hầu Trần Túc Kính. Núi Cô Phong và sông Đại Hoàng đều thuộc Ninh Bình.
- Theo như Nguyên sử thì Chương Hoài hầu Trần Văn Lộng là con rể của Vũ Đạo hầu. Lại thêm, Toàn thư không chép việc Văn Nghĩa hầu ra hàng quân Nguyên nhưng có chép việc Văn Chiêu hầu ra hàng Thoát Hoan. Như thế rõ rằng Vũ Đạo hầu, Văn Nghĩa hầu, Chương Hoài hầu đồng thời ra hàng Trấn Nam vương sau trận Đại Hoàng.
An Nam chí lược chép: “Khi đại binh đã lên đường (…) Thế Tử lại sai Nguyễn Văn Hàn đi xin đình việc quân. Mùa đông năm ấy [1284] đại binh của Trấn Nam vương đến biên cảnh, bắt Hàn làm hướng đạo, phá được của ải Nội Bàng, Trấn Nam vương mừng và tha Văn Hàn cho về dụ chúa đầu hàng sớm. Thế Tử không nghe, Văn Hàn bèn dụ tôn tử Văn Nghĩa hầu Trần Tú Viên đem gia quyến qui thuận”.
- Theo như mộ bia của Trần Tú Viên thì rất có thể Văn Hàn dụ hàng Trần Tú Viên sau khi Thoát Hoan chiếm được Thăng Long và theo như An Nam chí lược thì rất có thể Văn Hàn dụ hàng Văn Nghĩa hầu trước khi Thánh Tông trấn giữ sông Đại Hoàng, nhưng có lẽ Trần Tú Viên chưa nghe. Sau trận thua tại sông Đại Hoàng, Văn Nghĩa hầu mới ra hàng.
- Qua chi tiết con em của Trần Tú Viên trình với Vũ Đạo hầu về việc ra hàng và được Trần Túc Kính nghe theo cho thấy gia tộc của Văn Nghĩa hầu không có ý định gửi thư xin người phương bắc nam hạ.
Nguyên sử chép: “Các quân của Đường Ngột Đãi và Toa Đô lại từ Chiêm Thành đến cùng hội với đại quân. Từ khi vào địa giới (An Nam) lớn nhỏ đã giao tranh bảy lần (…) Ban đầu thì đánh bại quân của Chiêu Minh vương nước ấy, đánh Chiêu Hiếu vương, các đại liêu thuộc hộ vệ đều chết (…) Lại ở An Diễn châu, Thanh Hóa, Tràng An bắt được con rể của Trần thượng thư nhà Tống trước đây, Lương phụng ngự của Giao Chỉ cùng bọn Triệu Mạnh Tín, Diệp lang tướng hơn bốn trăm người (…) Đường Ngột Đãi, Lưu Khuê đều nói Chiêm Thành không có lương ăn, quân khó có thể đóng lại lâu. Trấn Nam vương lệnh cho Toa Đô dẫn quân Nguyên ở Tràng An và các nơi chuyển lương đến”.
- Sau khi đầu hàng, ngày 06/02 (13/03/1285) Giảo Kỳ sai Chương Hiến hầu Trần Kiện đánh Chiêu Minh vương Trần Quang Khải tại bến Phú Tân, giết Chiêu Hiếu hầu. Thánh Tông Trần Hoảng trước thì thua ở sông Đại Hoàng, sau em trai là Chiêu Minh vương thua ở bến Phú Tân nên sai Trung Hiến hầu Trần Dương đến gặp Thoát Hoan xin hòa và lại sai người cận thần là Đào Kiên đưa quốc muội đến chỗ Trấn Nam vương xin hòa.
- Thứ nhất theo như An Nam chí lược thì ban đầu Chu Khởi cùng với Tăng Uyên Tử cùng vào Giao Chỉ, Tử được Thánh Tông trọng đãi, sau tham chính đem mọi người ra hàng, như thế trong đoàn người nhập nam, Tử có tiếng nói. An Nam chí lược chép thêm rằng Tăng tham chính cùng Mã Vượng, Vương Phục, Khả Văn Kiệt, Tô Cảnh Do nhập nam, theo Nguyên sử thì Tăng tham chính và con trai của Tô thiếu bảo là Tô Bảo Chương [Cảnh Do] cùng ra hàng. Chu Khởi ra hàng Toa Đô cùng Chương Hiến hầu.
- Thứ hai đối chiếu ghi chép của Nguyên sử với An Nam chí lược, Toàn thư thấy có sự sai khác, cụ thể là Chương Hiến hầu ra hàng Toa Đô tại Thanh Hóa vào ngày 01/02 trong khi Văn Nghĩa hầu ra hàng Thoát Hoan tại Ninh Bình vào ngày 03/02 nên Nguyên sử đoạn này chép lấy nội dung chứ không phải chép chi tiết.
- Thứ ba đoạn sử trong An Nam truyện chép rằng Toa Đô đánh bại Chiêu Minh vương và bắt được hơn 400 người cũng là chép gộp nhưng dù sao cũng cho chúng ta biết Toa Đô đã bắt được Triệu Mạnh Tín, Diệp lang tướng, Lương phụng ngự và đặc biệt là con rể của Trần thượng thư nhà Tống.
- Thứ tư theo Nguyên sử thì Trấn Nam vương quản hạt các vùng Trường Yên, Thanh Hóa, An Diễn qua chi tiết điều quân tại Trường Yên chuyển lương.
- Thứ năm nguyên văn của An Nam truyện là “kỳ tông tộc văn nghĩa hầu, phụ võ đạo hầu cập tử minh trí hầu, tế chương hoài hầu tịnh chương hiến hầu, vong tống quan tăng tham chính, tô thiếu bảo tử tô bảo chương, trần thượng thư tử trần đinh tôn, tương kế suất chúng lai hàng”. Chữ Tịnh [] có nghĩa là Ngang Nhau. Nên tôi cho rằng câu văn mô tả 2 nhóm người là nhóm tôn tộc gồm Vũ Đạo hầu, Văn Nghĩa hầu, Minh Trí hầu, Chương Hoài hầu và nhóm còn lại gồm Chương Hiến hầu, Tăng Uyên Tử, Tô Bảo Chương, Trần Văn Tôn. Cách hiểu câu văn như trên hoàn toàn phù hợp với mộ bia của Trần Tú Viên là công côn đệ vu võ đạo.
- Từ 5 điều trên tôi cho rằng: nhóm lưu dân nhà Tống trong đó có Tăng Uyên Tử, Trần Văn Tôn ra hàng Toa Đô đồng thời hoặc sau không lâu sự kiện Chương Hiến hầu Trần Kiện dâng binh khí xin hàng tại Thanh Hóa.
Nguyên sử chép: “Nhị thập nhất niên, Trấn Nam vương Thoát Hoan chinh Giao Chỉ, chiếu Toa Đô soái sư lai hội, bại Giao Chỉ binh vu Thanh Hoá phủ, đoạt nghĩa an quan, hàng kỳ thần Chương Hiến, Chiêu Hiển. Thoát Hoan mệnh Toa Đô đồn Thiên Trường dĩ tựu thực, dữ đại doanh tương cự nhị bách dư lý” [Toa Đô truyện]
- Theo An Nam chí lược quốc đệ Trần Thôi lén sai Trần Văn Tôn xin người Nguyên nam hạ, khi người phương bắc xâm phạm bờ cõi Trần Văn Tôn đã dẫn đường, làm Thánh Tông Trần Hoảng tức giận mà bổ quan tài của Trần Trọng Vy. Theo Nguyên sử thì khi Toa Đô tiến vào Thanh Hóa thì Trần Kiện cùng các quan lại cũ của nhà Tống ra hàng trong đó có Trần Văn Tôn và người anh em rể.
- Theo An Nam chí lược khi Thế Tử quẫn bách đã khởi phục sai Chương Hiến hầu đem mấy vạn người chống cự Toa Đô ở Thanh Hóa, sau cũng vài vạn người này theo Chương Hiến hầu ra hàng.
- Theo Nguyên sử thì khi Toa Đô vào địa giới đã bắt được hơn 400 người lưu vong từ phương bắc trong đó có con rể của Trần thượng thư. Lại thêm, trên chúng ta có đưa ra bằng chứng cho thấy Trần Kiện không có ý định gọi người Nguyên đến. Nên tôi cho rằng vị Chiêu Đức hầu Trần Xán, người đã sai Trần Văn Tôn sang phương bắc xin người Nguyên nam hạ có ấp phong tại Thanh Hóa – Trường Yên, nơi mà có lưu dân phương bắc cư trú trong đó có gia đình Trần thượng thư và vị quốc đệ Trần Thôi có quan hệ với những người lưu dân từ phương bắc tới. Có thể tương tự như trường hợp của Chiêu Văn vương vì quý trọng người Tống nên lưu lại làm môn tường.
- Theo Nguyên sử thì khi Toa Đô vào địa giới đã giao tranh tới 7 lần, giành hơn hai ngàn dặm đất và 4 tòa vương cung. Toàn thư mục năm 1270 có chép sự kiện Tĩnh Quốc vương cho dựng phủ đệ tráng lệ khác thường tại Diễn Châu.
- Theo Nguyên sử thì ngoài Chương Hiến hầu ra thì Toa Đô còn hàng phục thêm một vị được chép là Chiêu Hiển [] liền trước Chiêu Hiển là Chương Hiến như thế Chiêu Hiển là tên hiệu.
- Khó khăn nằm ở chỗ cả Toàn thư, An Nam chí lược, An Nam truyện trong Nguyên sử đều không thấy chép về ngài Chiêu Hiển. Thấp thì Chiêu Hiển có tước hầu, cao thì ngài giữ tước vương, lại thêm trong tên hiệu có chữ Chiêu, qua thống kê chúng ta thấy phần nhiều chữ Chiêu có trong tên hiệu của những người anh em ruột với Thánh Tông Trần Hoảng như thế vị Chiêu Hiển cũng không tầm thường. Nhưng Lê Tắc lại không đề cập đến khi Chương Hiến hầu ra hàng Toa Đô nên có thể Chiêu Hiển ra hàng sau và rất có thể cùng thời điểm với Tăng Uyên Tử, Trần Văn Tôn.
Nguyên sử chép: “Em Nhật Huyên là Chiêu Quốc vương Trần Ích Tắc đem tôn tộc cùng vợ con, lại thuộc đến hàng. Bèn sai bọn Minh Lý Tích Ban đưa Chương Hiến hầu, Văn Nghĩa hầu cùng em là Minh Thành hầu, con của Chiêu Quốc vương là Nghĩa Quốc hầu về triều. Văn Nghĩa hầu được lên phía bắc, còn Chương Hiến hầu, Nghĩa Quốc hầu đều bị Hưng Đạo vương chặn đánh, Chương Hiến hầu chết, Nghĩa Quốc hầu thoát thân quay về trong quân”.
Sách Thơ văn Lý Trần viết: “Khảo đính. Các dị bản VATT, TVTL1, TVTL2, TVTL3, HVTT. HVTT vãn thiếu sư Trần Trọng Trưng, TVTL1 vãn thiếu bảo Trần Trọng Trưng, TVTL1 vãn thiếu bảo Trần Trọng Vi. Chú thích. Trần Trọng Trưng tự là Tri Quảng là bề tôi kỳ cựu và trung thành của nhà Nam Tống (…) Vua Thánh Tông rất trọng đãi ông. Khi ông mất Thánh Tông làm bài thơ viếng”.
- Trong những người mà Nguyên sử chép đến khi sai Minh Lý Tích Ban đưa về triều không có Chiêu Quốc vương. Có lẽ Trấn Nam vương muốn dựng chính quyền thân triều đình nên giữ Ích Tắc lại ? Cũng không thấy sách sử chép về Chiêu Hiển nên rất có thể Chiêu Hiển chết trước khi cánh quân phía nam hội với Thoát Hoan.
- Sau khi hàng Toa Đô, ngày 06/02 Giảo Kỳ sai Chương Hiến hầu đánh Chiêu Minh vương tại bến Phú Tân. Đây là trận đánh lớn, Đại Việt có Chiêu Minh vương, con trai là Văn Túc vương Trần Đạo Tái, Tá Thiên vương Trần Đức Việp, Chiêu Hiếu vương và các Đại liêu tham dự, tại trận này Chiêu Hiếu vương và các đại liêu tử trận. Nên rất có thể cũng giống như Chương Hiến hầu, Chiêu Hiển sau khi đầu hàng được sai đi đánh Chiêu Minh vương nhưng khác Trần Kiện về kết cục.
- Tôi cho rằng Chiêu Hiển không cùng ra hàng Toa Đô với Chương Hiến, vì thế mà Chiêu Hiển và Trần Kiện nhận lệnh đi đánh Phú Tân từ 2 người khác nhau, Chương Hiến nhận lệnh từ Giảo Kỳ còn Chiêu Hiển nhận lệnh từ Toa Đô. Qua việc Toa Đô nhận lệnh thu gom lương thực tại Trường Yên thì có khả năng, Giảo Kỳ và Toa Đô đã tách nhau ra sau khi Trần Kiện hàng. Giảo Kỳ ở lại cùng Chương Hiến còn Toa Đô tiến về Trường Yên buộc Chiêu Hiển cùng Tăng Uyên Tử, Trần Văn Tôn ra hàng.
- Theo như An Nam chí lược thì Trần Văn Tôn được Quốc đệ Trần Thôi lén sai sang Nguyên cầu binh và Văn Tôn được phong làm Thiên hộ dẫn đường. Như thế trước là được phong chức tước, sau là khi quân Nguyên Mông tiến vào địa giới Văn Tôn ở cùng Trấn Nam vương. Nhưng khi Toa Đô từ nam tiến ra thì Trần Văn Tôn lại ra hàng. Việc này cho phép chúng ta suy đoán, sau khi Thoát Hoan lấy được Thăng Long, Trần Văn Tôn trở về báo với Chiêu Đức vương và có thể họ đã ra hàng Toa Đô.
- Thế nhưng nếu Trần Xán ra hàng thì với cương vị là Quốc Đệ thì ngài phải được giữ chức tước, nên rất có thể Chiêu Đức đã chết. Lại thêm, Nguyên sử có chép về Trần Văn Tôn ra hàng nhưng không thấy chép đến Trần Xán. Có thể do Nguyên sử chép gộp nên những cái tên được chép đến là những người bái kiến Trấn Nam vương, nói cách khác là những người còn sống tại thời điểm gặp Thoát Hoan, còn những người tuy có hàng nhưng đã chết trước khi bái kiến Trấn Nam vương thì không được chép.
- Khó khăn cuối cùng đến từ tước hiệu, rõ ràng Chiêu Đức và Chiêu Hiển là khác nhau. Người viết buộc phải dừng mà không thể đi xa hơn nữa, tuy nhiên cũng xin nêu 2 hướng mà người viết cho là khả dĩ: thứ nhất liên quan tới kỵ húy vì Toàn thư mục năm 1304 có nhắc đến chữ Đức, thứ hai liên quan tới thần tích thần phả chẳng hạn như tại đình Ngọc Động thôn Ngọc Động xã Đa Tốn, huyện Gia Lâm có bài vị có 3 danh tướng người họ Đào là Độ Thống đại vương, Chiêu Hiển đại vương, Tam Lang đại vương hoặc đình Công Hà thôn Công Hà xã Hà Mãn huyện Thuận Thành thờ 3 vị tướng thời Hùng vương là Chiêu Trung đại vương, Chiêu Hiển đại vương, Diệu Quang đại vương hoặc theo danh mục tên thần do Viện nghiên cứu Hán Nôm thống kê thì vị trí số 94 có Đào Hiển (Chiêu Hiển đại vương) Nam Định tỉnh Vụ Bản phủ La Xá tổng các xã thần tích (AE.a15/30). Vị trí của Vụ Bản khá gần với Trường Yên, có thể bản thần tích về Chiêu Hiển đại vương sẽ cho thêm manh mối.
3. Tạp
3.1 Sơn trưởng Trần Tôn
An Nam chí nguyên chép: “Châu Vũ Ninh có núi Lạn Kha, liền nối nhau hàng vài trăm dặm, trên núi có bàn cờ bằng đá, tương truyền rằng xưa có hai vị tiên ngồi đánh cờ ở đó (…) Họ Trần từ lập thư viện Lạn Kha ở đây, dùng danh nho Trần Tôn làm sơn trưởng, dạy dỗ các sinh đồ, vua Trần thỉnh thoảng cũng đến vãng cảnh, mở yến ăn tết trùng dương”.
- Theo như khảo đính của sách Thơ văn Lý Trần thì Trần Trọng Vy còn có tên khác là Trần Trọng Trưng, thông tin này không phải không có cơ sở bởi ngay trong An Nam chí lược, Lê Tắc chép tên khác của Trần thượng thư là Trọng Huy.
- Thú vị là các tài liệu mà Thơ văn Lý Trần dẫn lại cho biết Trần Trọng Vy giữ chức thiếu sư hoặc thiếu bảo, trong khi An Nam chí lược cũng như Nguyên sử cho biết Vy làm thượng thư. Lại thêm sự trọng đãi của Thánh Tông đối với người Tống thì rất có thể Vy được giữ chức thiếu sư hoặc thiếu bảo tại triều Trần.
- Trần thượng thư thi đậu khoa Mẫu Tuất nên hẳn là giỏi chữ nghĩa, không rõ con trai là Trần Văn Tôn thế nào ? Nhưng rõ ràng là có sự trùng họ tên giữ con trai của Trần thượng thư và sơn trưởng của viện Lạn Kha. Xin bàn rõ hơn trong bài sau. 
3.2 Chiêu Đạo vương Quang Xưởng
Toàn thư chép: “Tân Sửu [1241] Hoàng tử thứ ba Quang Khải sinh, là em cùng mẹ với thái tử Hoảng. Quốc Khang là anh trưởng, sau đều phong đại vương. Thứ đến Nhật Vĩnh, Ích Tắc, Chiêu Văn đều phong vương. Thứ nữa thì phong thượng vị hầu. Con trưởng của các vương thì phong vương, các con thứ thì phong thượng vị hầu, coi đó là chế độ lâu dài (...) Nhâm Thìn [1292] Chiêu Đạo Vương trước tên là Quang Xưởng, là con thứ của Thái Tông, anh cùng mẹ của Ích Tắc”.
- Dựa vào Toàn thư, An Nam chí lược, Bạch Hạc chuông thì Quốc Khang là con thứ 1, Uy Hoảng là con thứ 2, Quang Khải là con thứ 3, Ích Tắc là con thứ 5, Nhật Duật là con thứ 6. Vậy người con thứ 4 của Thái Tông Trần Cảnh là ai ?
- Theo Toàn thư mục năm 1292 thì Quang Xưởng là anh cùng mẹ với Ích Tắc, như thế Xưởng phải là con thứ 4 của Thái Tông. Nhưng theo Toàn thư mục năm 1241 thì Ích Tắc được xếp trước, Chiêu Văn được xếp sau và cả 2 đều sau Nhật Vĩnh như thế nên hiểu Nhật Vĩnh là anh của Chiêu Quốc và Nhật Duật.
- Thấy rằng Nhật Vĩnh có nghĩa là Ngày Lâu Dài, trong khi Xưởng có nghĩa là Ngày Dài. Xem thêm chữ Hán thì thấy Xưởng [] là do Vĩnh [] ghép với Nhật [] do đó tôi cho rằng Chiêu Đạo vương còn có tên khác là Nhật Vĩnh.
3.3 An Tư công chúa
Toàn thư chép: “Tháng 2 ngày giáp thìn mồng 1, con thứ của Tĩnh Quốc Đại Vương Quốc Khang là thượng vị Chương Hiến hầu [Trần] Kiện và liêu thuộc là bọn Lê Trắc đem cả quân đầu hàng quân Nguyên (…) Sai người đưa công chúa An Tư (em gái út [quý muội] của Thánh Tông) đến cho Thoát Hoan, là muốn làm thư giãn loạn nước vậy (...) Bảo Nghĩa Vương Trần Bình Trọng (Vương là dòng dõi Lê Đại Hành, chồng sau của công chúa Thuỵ Bảo, ông cha làm quan đời Thái Tông, được ban quốc tính) đánh nhau với giặc ở bãi Đà Mạc, nay là bãi Mạn Trù) bị chết”.
Việt sử tiêu án chép: “Vua sai đưa Thiên Tư công chúa cho chúng, để thư nạn cho nước”
An Nam chí lược chép: “Ngày kỷ dậu mồng 6, Giảo Kỳ sai Chương Hiến hầu đánh phá quân của người em Thế tử là thái sư Trần Khải tại bến đò Phú Tân (…) Vua Trần sợ, sai người trong họ là Trung Hiến hầu Trần Dương xin hòa. Lại sai kẻ cận thị là Đào Kiên đưa bà chúa em vua [quốc muội] cho Trấn Nam vương xin hòa giải”.
An Nam chí lược chép: “Trần Tú Viên cháu gọi An Nam quốc vương bằng bác, con của Vũ Đạo hầu (…) Mùa xuân năm sau [1285] Tú Viên khuyên cha mẹ quy thuận (…) Năm sau [1288] Trở về Hán Dương, Trấn Nam vương lấy em gái [muội trần thị] làm thứ phi, sinh được 2 con”.
Trần Tú Viên thần đạo bi viết: “Trấn Nam vương đem đại quân tiến vào biên giới (…) Con em của ông [Tú Viến] bèn trình với Vũ Đạo rằng nhà Nguyên đang hưng thịnh, vạn quốc thần phục, nhà ta không sợ mệnh trời mà chống cự, thật là việc làm nghiêng đổ tông miếu, tàn hại sinh dân, ai là người sẽ chuyển họa thành phúc, ôm đồ tế khí mà bảo tồn miếu thờ tổ tiên, Vũ Đạo nghe theo, bèn xin hàng, dâng người con gái họ Lý [Lý nữ] cho vương, sau bà này sinh ra vương tông”.
- Theo như Toàn thư thì Thánh Tông sai đưa người em gái út là nàng An Tư tới cho Thoát Hoan, An Nam chí lược không chép rõ tên của nàng nhưng chép rõ là Quốc muội, như thế nàng An Tư đúng là em gái út ruột của Trần Hoảng. Thái Tông Trần Cảnh mất năm 1277, lại thêm việc dâng người để thư nạn nước thì hẳn nàng An Tư phải còn trẻ và chưa có chồng. Sử gia Ngô Thì Sĩ chép nàng công chúa mà Thánh Tông sai người đưa đến cho Trấn Nam vương là Thiên Tư.
- Theo mộ bia của Tú Viên thì sau khi Thánh Tông thua ở sông Đại Hoàng, Vũ Đạo hầu ra hàng và dâng người con gái họ Lí, người con gái này sau lấy Thoát Hoan sinh 2 người con. An Nam chí lược chép sau khi thua trận, Trấn Nam vương trở về Hán Dương lấy em gái họ Trần của Tú Viên cũng sinh các vương tông. Toàn thư cho biết thêm từ năm 1232 trở đi người dân không được phép sử dụng chữ Lý. Nên tôi cho rằng người con gái làm thứ phí của Trấn Nam vương vốn mang họ Lý nhưng là em (bên ngoại) của Tú Viên nên đổi sang mang họ Trần.
3.4 Trung Vũ vương Trần Thủ Độ
Toàn thư chép: “Nhâm Thìn [1232] Tháng 8, gió lớn dân gian phát dịch lệ, nhiều người chết. Trần Thủ Độ giết hết tôn thất nhà Lý. Khi ấy, Thủ Độ chuyên chính lâu ngày, đã giết Huệ Tông, tôn thất nhà Lý đều bùi ngùi thất vọng. Mùa đông năm ấy, nhân người họ Lý làm lễ tế các vua Lý ở Thái Đường, Hoa Lâm, Thủ Độ ngầm đào hố sâu, làm nhà lên trên, đợi khi mọi người uống rượu say, giật máy chôn sống hết. Xét thời Trần Anh Tông còn có người họ Lý làm tướng, hơn nữa [Phan] Phu Tiên không ghi lại, việc này chưa chắc đã có thực, hãy tạm chép vào đây”.
Sách Long Hưng. Đất phát nghiệp vương triều Trần của tác giả Đặng Hùng viết: “Có thể không có việc Trần Thủ Độ giết hết tôn thất nhà Lý, nhưng chắc chắn là có một số tôn thất (con cháu nhà Lý) đã chống lại Trần Thủ Độ và Vương triều Trần, nên bị Trần Thủ Độ tấn công và sát hại. Đó là trường hợp của Thiềm Hoa công chúa (…) Theo ông Nguyễn Văn Huyên trong bài Dấu tích Trần Thủ Độ trên đất Nam Hà. Căn cứ vào ba bản sắc phong thời Khải Định [1916-1925] ở đình Cả, thôn Thành Thị, xã Vụ Bản thì nơi đây trước là đất của vợ chồng công chúa Thiềm Hoa, được vua Lý cấp thái ấp cho. Thiềm Hoa công chúa đã cùng chồng là An Quốc đại vương chống lại Trần Thủ Độ”.
- Trước hết là lời bàn trong Toàn thư. Qua lời bàn, chúng ta biết rằng Phan Phu Tiên không chép lại sự việc Trần Thủ Độ giết hết tôn thất nhà Lý. Nhưng rất có thể Phu Tiên bỏ sót hoặc không biết, tôi nghiêng về bỏ sót hơn, chứ việc lớn như vậy, thật khó để không biết lắm. Thế nhưng bỏ sót, thì xem ra cũng chưa ổn, vì bản thân Ngô sử gia biết thông tin Thủ Độ giết hết tôn thất nhà Lý nhưng Sĩ Liên cũng chỉ dám chép "chưa chắc đã có thực, tạm chép vào đây". Tức là bản thân Ngô sử gia cũng đặt nghi ngờ về nguồn cung cấp thông tin, Sĩ Liên biết được thông tin, nhưng lại nghi ngờ thông tin, không biết đúng sai ra sao, nên cứ tạm ghi lại để kiểm chứng sau.
- Sự nghi ngờ của Ngô sử gia không phải không có căn cứ, khi ông biết rõ rằng "thời Trần Anh Tông còn có người họ Lý làm tướng". Và chính Toàn thư mục năm 1268 chép: "ngoại thích là Lý Cát phạm tội ngồi vào ngai vua ở điện Thiên An. Khi xét hỏi trị tội thấy hắn có chứng điên, bèn đánh trượng rồi tha". Trần Thủ Độ mất năm 1264, mà năm 1268 vẫn còn người họ Lý, thậm chí người này còn là ngoại thích [họ hàng bên vợ] của nhà Trần. Xem hành động "ngồi vào ngai vua" thì có vẻ như Cát là tôn thất của nhà Lý, vì tiếc nuối ngôi báu mà đã có hành động khá "lộ liễu" nhưng có lẽ vì là ngoại thích nên triều Trần niệm tình nên tha bằng cách bày cho trò "chứng điên" do đó chỉ bị đánh đòn.
- Mục Tự sự trong An Nam chí lược của Lê Tắc chép rằng "lúc đầu bản-quốc (An-nam) loạn lạc, cha mẹ, gia quyến ly tán, Tắc vào Trung-Châu, mười năm sau cưới tôn-nữ họ Lý, con quốc-vương trước, làm vợ. Lý tôn-nữ theo cha nuôi là Chương-Hoài-Hầu Trần-Tuyên-Uỷ hàng phụ Trung-Quốc". Trần Tuyên Ủy ở đây là tên khác của Trần Văn Lộng, mà cái thú vị nhất là theo mục Các vương hầu nội phụ trong An Nam chí lược thì "Trần Văn Lộng. Con của Nhân-Thành-Hầu, Trần-Duyệt, cháu nội của quốc-thúc thái-sư Trần-Thủ-Độ". Đúng là rất thú vị phải không ? Cháu nội của Trần Thủ Độ có một người con nuôi họ Lý và người con nuôi này là tôn nữ của Quốc vương trước. Vị quốc vương đó là ai thì tạm chưa bàn, nhưng chắc chắn vị này phải mang họ Lý thì tôn nữ mới mang họ Lý. Trần Văn Lộng nhận người con gái này làm con nuôi thì xem ra mối quan hệ giữa dòng dõi Trần Thủ Độ có mối quan hệ khá tốt với tôn thất họ Lý.
- Cuối cùng là qua Trần Tú Viên thần bi đạo, chúng ta biết rằng, cháu của Trung Vũ vương là Vũ Đạo hầu cũng có mối quan hệ rất tốt với người họ Lý, bằng chứng là ngài Vũ Đạo hầu đã dâng người con gái họ Lý cho Trần Nam vương. Rõ ràng là người họ Lý mà rất có thể là tôn thất vẫn còn sau khi Trung Vũ vương chết năm 1264.