Chủ Nhật, 15 tháng 7, 2018

BÀN VỀ THÂN THẾ CỦA HOÀI VĂN HẦU QUỐC TOẢN


(1) Sách Tóm tắt niên biểu lịch sử Việt Nam do hai tác giả Hà Văn Thư và Trần Hồng Đức biên soạn viết: “Hoài Văn hầu Trần Quốc Toản là con Trung Thành Vương, cháu nội của Nhân Đạo Vương”.
Bài Thiếu niên dũng tướng Trần Quốc Toản đã thành Liệt sĩ công huân như thế nào của tác giả Lê Văn Lan viết: “Có một hệ “tín hiệu chìm” giông giống như một quy định, ẩn trong những tước hiệu của các tôn thất quý tộc đời Trần [mà nương theo] có thể tìm ra bậc tiền bối sinh thành của Trần Quốc Toản [vì cùng có chữ Hoài ở đầu tước hiệu là] Trần Bà Liệt [đồng thời] với việc phong tước Hoài Đức vương, còn có việc cấp đất [tại] miền đất có trung tâm là làng Trang Liệt (Kẻ Sặt) ở tỉnh Bắc Ninh (…) Các tài liệu điều tra thực địa, địa phương chí, thần tích, truyền thuyết (…) ở vùng Từ Sơn, Tiên Du của tỉnh Bắc Ninh (…) cũng thống nhất xác nhận [và] các tài liệu địa phương chí và văn hóa dân gian vùng Từ Sơn-Tiên Du ở tỉnh Bắc Ninh, cũng đều thống nhất (…) Trần Quốc Toản là người quê làng Trang Liệt”.
Bài Trần Quốc Toản có chết trên vịnh Hạ Long không của tác giả Trần Nhuận Minh viết: “Theo một tài liệu tôi có thì Quốc Toản là con bà Trần Ý Ninh. Bà Ninh và anh trai là con Trần Hiến, Hiến là người cầm đầu toán quân chủ lực đảo chính quân sự, nhằm đưa ngôi vua về cho Trần Liễu, bị Trần Thủ Độ chém đầu cùng với vợ là Lê Thị Đạt. Trần Liễu cảm cái ơn ấy nên đưa hai con của Hiến về nuôi. Ông gả Ý Ninh cho một vương hầu (không rõ tên) sinh ra Quốc Toản (...) Việc Quốc Toản mới 15 tuổi đã được phong hầu [tụ tập quân sĩ] hơn 1 000 người (…) chứng tỏ thế lực nhà Quốc Toản [rất mạnh] Theo bố phòng quân đội [thì] Quốc Tuấn đóng đại bản doanh ở Vạn Kiếp nằm giữa Hải Dương và Bắc Ninh. Con rể nuôi là Phạm Ngũ Lão đóng quân chặn giặc ở nam ải Chi Lăng. Trần Quốc Nghiễn (con trưởng Trần Quốc Tuấn) đóng quân ở Bắc Ninh (…) Quốc Tảng ở Hải Dương cùng bác ruột là Trần Tung. Còn Quốc Hiện, Quốc Uất cũng ở trong vùng Bắc Ninh - Bắc Giang [nên] cháu nuôi là Quốc Toản chặn giặc ở Sông Cầu (…) như tài liệu cũ tôi đã đọc là có thể tin được”.
Bài Bí ẩn về cuộc đời Trần Quốc Toản của tác giả Đinh Ngọc Thu viết: “Hoài Văn hầu Trần Quốc Toản là con của Vũ Uy vương Trần Nhật Duy và vương phi Trần Ý Ninh. Trần Nhật Duy là con trai vua Trần Thái Tông (…) Sau chiến thắng quân Mông Cổ lần thứ nhất năm 1258, vua Trần Thánh Tông cử Trần Nhật Duy và vợ là Trần Ý Ninh cùng một số tướng lãnh sang giúp nhà Tống (…) Trần Quốc Toản được mẹ sinh ra ở đất Tống vào năm 1267 (…) Riêng gia phả của hậu duệ Trần Quốc Toản mang tên Viêm phương Trần tộc Lưu phả và mộ chí ở Trung Quốc vừa tìm thấy được có nói về người vợ Tống của ông là vị công chúa cuối đời Tống tên Triệu Ngọc Hoa [Ghi chú số 4 viết] Theo GS Trần Đại Sĩ thì bà là em gái của Trần Tử Đức. Hai người là con của ông Trần Hiến và bà Lê Thị Đạt”.
(2) Toàn thư chép: “Nhâm Ngọ [1282] Mùa đông tháng 10, vua ngự ra Bình Than đóng ở vũng Trần Xá họp vương hầu và trăm quan, bàn kế sách công thủ và chia nhau đóng giữ những nơi hiểm yếu (...) Vua thấy Hoài Văn Hầu Quốc Toản, Hoài Nhân Vương Kiến đều còn trẻ tuổi, không cho dự bàn. Quốc Toản trong lòng hổ thẹn, phẫn kích tay cầm quả cam bóp nát lúc nào không biết. Sau đó lui về huy động hơn nghìn gia nô và thân thuộc sắm vũ khí, đóng chiến thuyền viết lên cờ 6 chữ "phá cường địch, báo hoàng ân". Sau này khi đối trận với giặc, tự mình xông lên trước quân sĩ, giặc trông thấy phải lui tránh, không giám đối địch. Đến khi mất, vua rất thương tiếc, thân làm văn tế, lại gia phong tước vương”.
Cương mục chép: “Nhâm Ngọ [1282] Lúc ấy có Hoài Văn hầu là Quốc Toản, cũng theo xa giá. Vì còn ít tuổi, không được dự bàn việc quân, Quốc Toản lấy làm hổ giận lắm, trong tay cầm quả cam, không biết bóp nát ra lúc nào; khi đã lui về, cùng với hơn ngàn người gia đồng và thân thuộc sắm sửa binh khí, chiến thuyền, kéo cờ đề sáu chữ "phá cường tặc báo hoàng ân". Kịp lúc quan quân đánh nhau với quân Nguyên, Quốc Toản thường xông pha đi trước quân lính, quân giặc trông thấy là phải tránh lui, không ai dám đối địch [Lời chua] Quốc Toản (…) là tôn thất nhà Trần”.
- Có 3 sai khác giữa 2 tài liệu sử trên: Thứ nhất, Cương mục có chép thêm thông tin “cũng theo xa giá” rõ ràng nó giúp chúng ta định hướng quê quán của Hoài Văn hầu. Thứ hai, Toàn thư chép thêm về Hoài Nhân vương Kiến [ 𡺅 ] tước hiệu của cả Toản và Kiến đều có Hoài, mối quan hệ giữa họ là như thế nào. Thứ ba, Quốc sử quán triều Nguyễn có giải thích thêm rằng “Toản là tôn thất nhà Trần” như thế không lẽ Ngô sử gia chép chưa rõ ràng sao ?
Sách Cuộc kháng chiến chống xâm lược Nguyên Mông thế kỷ XIII của hai tác giả Hà Văn Tấn và Phạm Thị Tâm viết: “Tháng 10 năm Nhâm Ngọ (2/11 - 1/12/1282) hai tháng sau khi được tin viên trấn thủ Lạng Châu là Lương Uất báo về quân Nguyên đòi mượn đường đánh Chiêm Thành nhưng thực ra định xâm lược, vua Trần đã ra Bình Than, đóng lại ở Trần Xá Loan mở hội nghị vương hầu bách quan. Cuộc họp này có mục đích “bàn kế đánh phòng” và “chia quân giữ nơi hiểm yếu”. Không họp ở Thăng Long có lẽ một phần vì triều đình Trần muốn tránh con mắt dò xét của bọn sứ Nguyên. Trong lúc ở kinh thành, “sứ giặc đi lại ngoài đường” thì một cuộc họp lớn như thế nhất định không thoát khỏi sự chú ý của chúng. Nếu không dò biết được nội dung hội nghị và kế hoạch phòng thủ của ta thì chúng cũng có thể phỏng đoán được mục đích của hội nghị do việc tụ hội đông đảo quý tộc quan liêu một cách bất thường. Vào những năm 1281, 1282 quan hệ ngoại giao Việt - Nguyên đã rất căng thẳng, nhưng vương triều Trần vẫn còn cố gắng trì hoãn thời gian để chuẩn bị lực lượng kháng chiến. Vì thế, để tránh được kẻ thù kiếm cớ gây chuyện lôi thôi, việc giữ bí mật cuộc hội nghị lớn này là cần thiết”.
- Sự kiện Hoài Văn hầu muốn tham dự hội nghị cho thấy tuy ngài trẻ tuổi nhưng đã trưởng thành về mặt nhận thức nên rất khó giải thích vì sao trên tay ngài lại có trái cam. Trần Nhân Tông không cho Quốc Toản tham gia hội nghị thì sao lại cho theo xa giá như ghi chép của Cương mục. E rằng đã có sự thêm bớt của người chép sử ?
Sách Cuộc kháng chiến chống xâm lược Nguyên Mông thế kỷ XIII của hai tác giả Hà Văn Tấn và Phạm Thị Tâm viết: “Bấy giờ Toa Đô cũng đang đóng ở Thanh Hóa. Tháng 4 năm Ất Dậu (6/5 - 4/6/1285) Hưng Đạo vương cùng với Chiêu Minh vương Quang Khải, Chiêu Văn vương Nhật Duật và các tướng lĩnh khác đem binh thuyền vượt qua vùng chiếm đóng của Toa Đô, tiến ra Bắc [trước đây, khi lực lượng chưa đủ mạnh, quân ta đã rút về Thanh Hóa để tránh sự tấn công từ hai mặt của kẻ thù] Hưng Đạo vương đã đem quân tấn công vào đồn A Lỗ [chỗ sông Hồng nối với sông Luộc] Viên tướng Nguyên giữ đồn này là vạn hộ Lưu Thế Anh đã phải rút chạy [cũng trong tháng 4 âm lịch] Chiêu Thành vương (không rõ tên) Hoài Văn hầu Quốc Toản và tướng quân Nguyễn Khoái được lệnh đem quân đón đánh quân Nguyên ở bến Tây Kết [gần bãi Thiên Mạc] Chiêu văn vương Trần Nhật Duật và các tướng khác đã đánh tan giặc ở cửa Hàm Tử [xã Hàm Tử, huyện Khoái Châu, tỉnh Hưng Yên] Chiêu Minh vương Quang Khải, Hoài Văn hầu Quốc Toản cùng các tướng khác đem quân vào đánh Chương Dương [xã Chương Dương, huyện Thường Tín, tỉnh Hà Tây] và Thăng Long. Phối hợp với quân chủ lực của triều đình còn có các đạo dân binh ở các lộ do Trần Thông, Nguyễn Khả Lạp và em là Nguyễn Truyền chỉ huy. Quân ta đã tiến đánh Thăng Long từ các mặt bộ và thủy. Trong khi tấn công vào thành, tướng Trần là Trung Thành vương đã đánh tan quân giặc do thiên hộ Mã Vinh chỉ huy ở Giang Khẩu [Hàng Buồm, Hà Nội] Thoát Hoan và A-ric Kha-y-a đã phải tháo chạy khỏi Thăng Long, vượt qua sông Hồng, đóng quân lại ở phía bắc sông (…) Vào đầu tháng 5 âm lịch, hai vua Trần cũng kéo quân từ Thanh Hóa ra. Ngày 3 tháng 5 (7/6/1285) vua Trần đánh tan quân Nguyên ở Trường Yên (Ninh Bình) chém được đầu giặc vô số. Có lẽ đấy là một bộ phận cánh quân của Toa Đô đã đóng lại ở đây khi y tiến quân từ Trường Yên vào Thanh Hóa”.
Toàn thư chép: “Ất Dậu [1285] Mùa hạ tháng 4, vua sai bọn Chiêu Thành Vương (khuyết danh) Hoài Văn hầu Quốc Toản, tướng quân Nguyễn Khoái đem tiệp binh đón đánh giặc ở bến Tây Kết. Quan quân giao chiến với quân Nguyên ở Hàm Tử Quan, các quân đều có mặt. Riêng quân của Chiêu Văn Vương Nhật Duật có cả người Tống, mặc quần áo Tống, cầm cung tên chiến đấu. Thượng hoàng sợ các quân có thể không phân biệt được, sai người dụ rằng "Đó là quân Thát của Chiêu Văn đấy, phải nhận kỹ chúng". Vì người Tống và người Thát, tiếng nói và y phục giống nhau. Quân Nguyên trông thấy [quân Tống] đều rất kinh hãi, bảo nhau là người Tống sang giúp, vì thế thua chạy. Trước kia, nhà Tống mất, nhiều người Tống theo ta, Nhật Duật thu nạp họ, có Triệu Trung làm gia tướng. Cho nên chiến công đánh bại giặc Nguyên, Nhật Duật lập được nhiều hơn cả. Tháng 5 ngày mồng 3, hai vua đánh bại giặc ở phủ Trường Yên, chém đầu cắt tai giặc nhiều không kể xiết”.
- Qua chi tiết vua sai và thượng hoàng truyền dụ thì rõ ràng vua và thượng hoàng đã cùng đại quân từ Thanh Hóa vượt biển ra bắc để trực tiếp chỉ đạo trận chiến. Có thể hai tác giả đã lầm việc này chăng ?
- Khi vây đồn A Lỗ, biết sẽ có cứu binh nên vua đã lệnh cho Chiêu Thành hầu, Hoài Văn hầu, Nguyễn Khoái đem quân mai phục tại bến Tây Kết. Sau khi buộc Lưu Thế Anh rút lui, tổng quân đánh trận quyết định tại cửa Hàm Tử, Chiêu Văn vương lập đại công.
- Kết thúc trận chiến, đại quân chia 3, đạo một theo hai vua tiến xuống phía nam tấn công Trường Yên đồng thời kìm Toa Đô, đạo hai theo Hưng Đạo vương, Hưng Ninh vương men sông Hồng tiến lên phía bắc hòng phục kích khi địch rút lui, đạo ba theo Chiêu Minh vương, Chiêu Văn vương, Trung Thành vương, Hoài Văn hầu tấn công bến Chương Dương.
Sách Cuộc kháng chiến chống xâm lược Nguyên Mông thế kỷ XIII của hai tác giả Hà Văn Tấn và Phạm Thị Tâm viết: “Ngày Đinh Sửu, 5 tháng 5 (9/6/1285) cánh quân của Giảo Kỳ xâm nhập vào Thăng Long. Có lẽ y vừa bị đánh bại ở phòng tuyến sông Hồng và bây giờ đang cố tìm đường chạy về Thăng Long, mong gặp hoàng tử Trấn Nam vương (…) Gặp sức chiến đấu của quân dân bảo vệ Thăng Long, Giảo Kỳ vội vã rút quân qua sông Hồng [trong khi] đồn trại của Thoát Hoan ở phía bắc sông Hồng, chắc là ở vùng Gia Lâm, đang bị quân Trần tấn công liên tiếp. Khi cánh quân của Giảo Kỳ đã đến, Thoát Hoan liền cho rút quân”
Nguyên sử chép: “Quân triều đình tụ họp các tướng nghị rằng “Người Giao Chỉ chống trả quan quân, tuy mấy phen thua chạy, nhưng quân tăng rất nhiều. Quan quân thiếu thốn, tử thương cũng lắm, quân kị của Mông Cổ cũng không thể thi thố được tài năng”. Bèn bỏ kinh thành, qua sông sang bờ bắc, quyết nghị lui binh về đóng ở châu Tư Minh. Trấn Nam vương cũng cho là phải, bèn dẫn quân về. Hôm ấy, Lưu Thế Anh đánh dữ cùng quân của Hưng Đạo vương, Hưng Ninh vương hơn hai vạn người” [Bản dịch của Châu Hải Đường]
An Nam chí lược chép: “Trong tháng 4 mùa hạ, An Nam thừa cơ quân ta đề phòng chỉnh mảng, đánh lấy lại La Thành. Ngày Đinh Sửu mồng 5 tháng 5, Giảo Kỳ cùng Vạn Hộ phục binh đánh vào cung điện vua Trần, đánh tan rồi đến sông Lư Giang hội họp với Trần Nam vương. Ngày sau kéo quân về. Quân An Nam đuổi theo tới sông Nam Sách, quan hữu thừa là Lý Hằng đánh lui, chém tên nghĩa dũng của Hưng Đạo vương là Trần Thiệu” [Bản dịch của Viện đại học Huế]
Toàn thư chép: “Ngày mồng 10, có người từ chỗ giặc trốn về đến ngự doanh tâu báo: Thượng tướng Quang Khải, Hoài Văn Hầu Quốc Toản và Trần Thông, Nguyễn Khả Lạp cùng em là Nguyễn Truyền đem dân binh các lộ đánh bại quân giặc ở các xứ Kinh Thành, Chương Dương. Quân giặc tan vỡ lớn. Bọn thái tử Thoát Hoan, Bình chương A Lạt rút chạy qua sông Lô”.
- Sau khi chiếm ưu tại bến Chương Dương, Chiêu Minh vương dẫn quân tiến đánh Thăng Long mấy phen nhưng không lợi Trần Thông, Nguyễn Khả Lạp, Nguyễn Truyền đem dân binh chi viện đã buộc Thoát Hoan rút sang Gia Lâm, Thiên hộ Mã Vinh giữ Giang Khẩu chống quân truy kích bị Trung Thành vương đánh lui.
- Lập trại ở Gia Lâm, Thoát Hoan còn quân nên có thể hội với cánh quân do Toa Đô và Ô Mã Nhi từ Thanh Hóa tiến ra bắc để lấy lại Thăng Long, vì thế Thoát Hoan sai Giảo Kỳ phục binh và chờ thời cơ tấn công vào cung cấm. E rằng sự việc này hai tác giả đã phỏng đoán sai chăng ?
- Hưng Đạo vương và Hưng Ninh vương đem 2 vạn quân liên tục tấn công Thoát Hoan, Trần Nam vương toan tính tạm rút về Tư Minh, chỉnh đốn lương binh ngựa khí hẹn Toa Đô tiến đánh Thăng Long.
Sách Cuộc kháng chiến chống xâm lược Nguyên Mông thế kỷ XIII của hai tác giả Hà Văn Tấn và Phạm Thị Tâm viết: “Quân Thoát Hoan thua chạy đến sông Như Nguyệt (sông Cầu) lại gặp phải đội quân của Hoài Văn hầu Trần Quốc Toản đổ ra đánh (...) Bị thua ở sông Như Nguyệt, bọn Thoát Hoan hốt hoảng tháo chạy nhưng đến sông Sách (sông Thương chảy qua vùng Vạn Kiếp) chúng lại lọt vào trận địa phục kích của Trần Quốc Tuấn. Quân giặc bắc cầu phao sang sông (...) Thoát Hoan phải cho Lý Hằng đi bảo vệ phía sau (...) Đến Vĩnh Bình, quân Thoát Hoan đã gặp quân phục kích của Hưng Vũ vương Hiến (…) Cánh quân của Na-xi-rut Đin (Nasir ud-Dìn) đã từng giáp chiến với quân Chiêu Văn vương Nhật Duật ở trại Thu Vật (Yên Bình, Yên Bái) bên sông Chảy (…) cùng chịu một số phận thất bại như các cánh quân khác, cánh quân này lại bỏ chạy theo con đường mà chúng đã tiến vào. Có lẽ chúng sẽ chạy thoát vì bấy giờ, toàn bộ quân chủ lực của triều đình Trần đang được tung vào việc truy kích, tập kích cánh quân lớn của Thoát Hoan và chuẩn bị đón đánh cánh quân của Toa Đô. Nhưng điều may mắn đó không đến với chúng (...) Khi bọn giặc đi qua huyện Phù Ninh (huyện Phù Ninh, tỉnh Phú Thọ) chúng đã vấp phải sức chiến đấu ngoan cường và mưu trí của nhân dân dân tộc thiểu số. Phụ đạo tử huyện Phù Ninh là Hà Đặc cùng với nhân dân đóng ở trên núi chuẩn bị tập kích giặc (...) Say sưa trong cuộc truy kích kẻ thù, người anh hùng miền núi đó đã tử trận. Em Hà Đặc là Hà Chương bị giặc bắt, nhân lúc giặc sơ hở, đã tìm cách trốn thoát. Cũng trí dũng như người anh của mình, lúc trốn khỏi trại giặc”.
Ghi chú số 13: Nguyên sử chép: “Quan quân lại đến sông Như Nguyệt, Nhật Huyên sai Hoài Văn hầu đến đánh”. Kinh thế đại điển tự lục chép rõ hơn: “Đến sông Như Nguyệt, Nhật Huyên sai Hoài Văn hầu đến đuổi. Giết chết được”. Về cái chết của Trần Quốc Toản, sử ta không chép rõ. Toàn thư khi chép truyện Quốc Toản ở hội nghị Bình Than (1282) có nói: “Đến lúc chết, vua rất thương tiếc, thân làm văn tế, lại gia phong tước vương”. Toàn thư không chép rõ Quốc Toản chết bao giờ nhưng từ sau năm 1285, không thấy chỗ nào nhắc đến viên tướng thiếu niên ấy nữa. Như vậy đúng là Quốc Toản đã hy sinh trong cuộc kháng chiến lần thứ hai và theo Kinh thế đại điển tự lục là trong trận sông Như Nguyệt [dẫn lược]
- Khi rút lui khỏi Thăng Long, Trấn Nam vương bị Đại Việt truy kích, mai phục tại 4 điểm gồm Gia Lâm, sông Như Nguyệt, sông Nam Sách, trại Vĩnh Bình. Tuy rằng sau cuộc giao tranh giữa Lưu Thế Anh và Hưng Đạo vương tại Gia Lâm khiến Mông Nguyên tổn thất nặng song cũng không thảm đến nỗi Đại Việt chỉ cần cử đội quân ngàn người do Hoài Văn hầu đến đánh.
- Nếu biện rằng nhiệm vụ của Trần Quốc Toản là xua quân Mông Nguyên về Vạn Kiếp thì không cần Hoài Văn hầu phải cố đánh để bỏ mạng bên dòng Như Nguyệt. Nếu biện rằng Trần Quốc Toản tự truy kích thì lại mâu thuẫn với sử liệu. Nguyên sử và Kinh thế đại điển tự lục chép rõ rằng Nhật Huyên sai Hoài Văn hầu đến đánh ?
- Nếu Trần Nhân Tông sai Trần Quốc Toản đến đánh thì hẳn đội quân do Hoài Văn hầu chỉ huy cũng phải tương đương Trung Thành vương hoặc Chiêu Thành vương chứ không thể ngàn người được và Trần Quốc Toản cũng phải rất trưởng thành chứ không thể thiếu niên như sách sử chép.
- Lại thêm Toàn thư chép đến Hoài Văn hầu tại trận Tây Kết, Hàm Tử, Chương Dương, Thăng Long. Rõ rằng phải thực có công mới được chép nhiều như thế chứ không thể chỉ là ưu ái do thiếu niên mà anh dũng. Sau toàn những trận khắc nghiệt thì câu hỏi là đội quân ngàn người của Hoài Văn hầu còn lại bao nhiêu ?
- Sử sách có phần ngoa khi chép rằng “giặc trông thấy phải lui tránh, không giám đối địch” nhưng không sai khi chép “đối trận với giặc, tự mình xông lên trước quân sĩ”. Hoài Văn hầu tham gia tất cả các trận đánh lớn nhỏ trong chiến dịch Đại Việt phản công trừ các trận Trường Yên, Vạn Kiếp, Tư Minh do không thể. Nên câu hỏi là với tinh thần hăng hái hiếm có như vậy thì lại không thấy ghi chép nào về Trần Quốc Toản trong giai đoạn Mông Nguyên tấn công. Nếu trong giai đoạn Đại Việt rút lui mà Hoài Văn hầu có tham gia thì người chết không phải là Bảo Nghĩa hầu Trần Bình Trọng.
 (3) Sách Cuộc kháng chiến chống xâm lược Nguyên Mông thế kỷ XIII của hai tác giả Hà Văn Tấn và Phạm Thị Tâm viết: “Năm 1285, viên bình chương chính sự hành tỉnh Vân Nam là Na-xir út-Đin (Nā sir ud- Dīn) đã đem một nghìn quân Mông Cổ và Kha-ra-jang (Qaraĵang, tức quân người Ô Man ở Vân Nam) tiến vào biên giới Đại Việt phía Tuyên Quang để phối hợp với cánh quân của Thoát Hoan ở phía đông. Bấy giờ, Chiêu Văn vương Nhật Duật đóng ở trại Thu Vật (huyện Yên Bình, tỉnh Yên Bái). Sau khi giao chiến với giặc, cũng như các cánh quân phía đông, Nhật Duật đã rút lui để bảo toàn lực lượng. (…) Ngày rằm tháng giêng năm Ất Dậu (20-2-1285) một ngày sau khi Thoát Hoan tiến vào Thăng Long, cánh quân của Trần Nhật Duật về đến Bạch Hạc. Bấy giờ trong quân của Nhật Duật có nhiều người Tống, trong số đó có đạo sĩ Hứa Tông Đạo, người ở Phúc Châu thuộc lộ Phúc Kiến, sang Đại Việt từ năm 1276. Đoàn quân của Nhật Duật đã dừng lại trên bờ sông Bạch Hạc (chỗ gần cầu Việt Trì) cắt tóc làm lễ tuyên thệ, nguyện lấy lòng trung để báo ơn vua. Sau đó, cánh quân của Nhật Duật đã vượt qua vùng các dân tộc thiểu số rút về chỗ vua Trần đóng quân”.
Ghi chú số 9: Bài minh chuông thông Thánh Quán có đoạn: “Vào ngày thượng nguyên (tức rằm tháng giêng) năm Ất Dậu (20-02-1285) ở sông Bạch Hạc, cắt tóc tuyên thệ, thề với thần là dốc hết lòng trung để báo quân thượng. Rồi suất lĩnh tả hữu quân kỵ, tiến lên phía trước, mới vượt qua vùng Man Lão (chỉ các dân tộc thiểu số) thẳng đến ngự tiền”. Bài minh không cho chúng ta biết là Nhật Duật đã rút về gặp vua Trần theo đường nào mà đã qua vùng các dân tộc thiểu số. Theo bài minh này thì đạo sĩ Hứa Tông Đạo là người hương Thái Bình, huyện Phúc Thanh, Phúc Châu, lộ Phúc Kiến, theo thuyền đến Đại Việt năm Bính Tý (1276). Toàn thư chép Hứa Tông Đạo đến vào năm Hưng Long 10 (1302) là nhầm vì chính Tông Đạo viết bài minh này.
Sách Cuộc kháng chiến chống xâm lược Nguyên Mông thế kỷ XIII của hai tác giả Hà Văn Tấn và Phạm Thị Tâm viết: “Từ khi Thoát Hoan xuất quân, Toa Đô đã được lệnh từ Chiêm Thành tiến ra để phối hợp. Triều đình Trần cũng đã nghĩ đến điều đó. Chính vì thế mà vua Trần và Hưng Đạo vương Trần Quốc Tuấn đã để một số quân lớn trấn giữ ở miền Diễn Châu và Nghệ An (Nghệ An và Hà Tĩnh). Trong khi hầu hết quân lực vùng đồng bằng Bắc Bộ được huy động về cứ điểm Vạn Kiếp thì như lời thơ của Nhân Tông “Hoan Diễn còn kia chục vạn quân”. Miền đất phía nam này từ trước vua Trần đã giao cho những vương hầu thân tín trấn trị. Năm 1269, Tĩnh Quốc đại vương Quốc Khang được phong làm Vọng Giang phiêu kỵ đô thượng tướng quân vào giữ đất Diễn Châu. Đến nay, để ngăn cánh quân Toa Đô từ Chiêm Thành đánh ra, Chiêu Văn vương Trần Nhật Duật, người chiến tướng vừa vượt qua vòng vây của giặc ở mặt trận Tuyên Quang đã được lệnh vội vã lên đường vào trấn giữ Nghệ An. Trong lúc cả nước đang chống giặc thì Chương Hiến hầu Trần Kiện, con Tĩnh Quốc vương Quốc Khang, vì hiềm khích với hoàng tử Tá Thiên vương Đức Việp, đã nằm dài ở hương Tức Mặc, lấy cớ học đạo Lão Trang. Để tăng cường bảo vệ phía nam, vua Trần đã gọi y ra, sai đem quân vào Thanh Hóa. Ngày 28 tháng giêng năm Ất Dậu (5/3/1285) vua Trần lại theo lời đề nghị của Hưng Đạo vương Trần Quốc Tuấn, cử thêm thượng tướng thái sư Chiêu Minh vương Trần Quang Khải vào tăng viện cho Nghệ An”.
Ghi chú số 2: An Nam chí lược chép rằng vua Trần sai em là Chiêu Văn vương Trần Duật và hầu Trịnh Đình Toản chống giữ ở Nghệ An vào tháng giêng âm lịch. Chúng ta nhớ rằng ngày rằm tháng giêng âm lịch (20/02/1285) Trần Nhật Duật còn ở Bạch Hạc (Việt Trì). Trong số các sứ Trần sang Nguyên năm 1278, có một người tên là Trịnh Đình Toản. Trịnh Đình Toản bị giữ lại ở Trung Quốc. Năm 1283, vua Trần đưa thư cho A-ric Kha-y-a đòi tha các sứ bị giữ, A-ric Kha-y-a đã thả các sứ ta. Không rõ trong số đó có Trịnh Đình Toản không và Trịnh Đình Toản đó có phải là người cùng Nhật Duật vào Nghệ An không. Nhưng Trịnh Đình Toản đi sứ không phải là tước hầu. Có lẽ hầu Trịnh Đình Toản là Hoài Văn hầu Trần Quốc Toản chép nhầm ra.
An Nam chí lược chép: “Đại vương Giảo Kỳ, Hữu thừa Toa Đô, Tả thừa Đường Cổ Đái, Chính Hắc Đích vâng lời chiếu chỉ, từ Chiêm Thành kéo quân tới, vào phủ Bố Chính đánh mặt sau. Thế tử sai em là Chiêu Văn vương Trần Duật, hầu Trịnh Đình Toản chống cự ở Nghệ An nhưng bị thua chạy. Thế tử thấy đã nguy cấp, sai con người anh là Chương Hiến hầu Trần Kiện nghênh chiến tại Thanh Hóa, dằng dai lâu ngày rồi sức yếu, lại không có quân tiếp viện, Chương Hiến hầu bèn cùng bọn Lê Tắc kéo quân đầu hàng”.
- Hai tác giả Hà Văn Tấn và Phạm Thị Tâm cho rằng An Nam chí lược đã chép nhầm người theo Chiêu Văn vương vào chống cự Toa Đô tại Nghệ An từ Trần Quốc Toản thành Trịnh Đình Toản. Nếu đúng việc này sẽ giải thích vì sao sách sử không ghi chép về Hoài Văn hầu trong giai đoạn Đại Việt rút lui.
(4) An Nam chí lược chép: “Đại Nguyên phụng sự. Năm Chí-Nguyên thứ 15 (1278) khiến Sài-Thung ở Vân-Nam giữ chức Lễ-Bộ Thượng-thư, dẫn sứ thần An-nam là Lê-Khắc-Phục về nước và dụ Thế-Tử lấy cớ đang cư ta, nên chỉ sai bồi-thần là bọn Trịnh-Đình-Toản và Đỗ-Quốc-Kế vào cống. Năm Chí-Nguyên thứ 16 (1279) giữ sứ-thần An-nam là Trịnh-Đình-Toản ở lại, rồi sai Sài-Thung dẫn sứ-thần Đỗ-Quốc-Kế về nước và dụ vua phải vào chầu (…) Sứ-thần các Triều-đại. Năm Đinh-Sửu Chí-Nguyên thứ 14 (1277) Trần-Thái-Vương mất, con lên ngôi, khiến Đại-phu Châu-Trọng-Ngạn và Ngô-Đức-Thiệu tiến cống. Năm sau Thế-Tổ Hoàng-Đế khiến Lễ-Bộ Thượng-Thư Sài Thung qua vời Thế-Tử vào chầu. Thế-Tử lấy cớ đương đau không đi, khiến đại-phu Trịnh-Đình-Toản và Đỗ-Quốc-Kế vào cống. Đình-Toản bị câu-lưu ở Kinh-sư”.
Nguyên sử chép: “Tháng 8 năm thứ 15 [1278] sai lễ bộ thượng thư Sài Xuân, hội đồng quán sứ Cáp Lạt Thoát Nhân, công bộ lang trung Lý Khắc Trung, công bộ viên ngoại lang Đổng Đoan cùng bọn Lê Khắc Phục cầm chiếu thư sang dụ Nhật Huyên sang chầu nhận mệnh [tháng 11 nhuận] Nhật Huyên sai ngự sử trung tán kiêm tri thẩm hình viện sự Đỗ Quốc Kế đến trước, rồi cho thái úy dẫn bá quan đến bên sông Phú Lương nghênh đón vào sứ quán [tháng 12] Nhật Huyên sai Phạm minh tự gửi thư tạ tội, đổi bầy yến ở điện Tập Hiền (…) Bọn Xuân quay về, Nhật Huyên sai Phạm minh tự, Trịnh Quốc Toản, trung tán Đỗ Quốc Kế phụng biểu trần tình (…) đồng thời lại cống phương vật cùng hai con voi nhà (…) Tháng 3 năm thứ 16 [1279] bọn Xuân đến kinh sư trước, lưu Trịnh Quốc Toản đợi ở Ung Châu [sau] lệnh cho sứ giả triều kiến. Tháng 11 lưu sứ giả An Nam là Trịnh Quốc Toản ở hội đồng quán. Lại sai bọn Sài Xuân bốn người cùng Đỗ Quốc Kế mang chiếu sang lại dụ Nhật Huyên”.
An Nam chí lược chép: “Sản vật. Voi. Xứ Lâm-Ấp sản-xuất voi, lúc đầu tại nước Chiêm-Thành, tục hay dùng voi để cỡi và chở (...) Năm Bính-Tý (1276) hiệu Chí-Nguyên, triều-đình dẹp yên nhà Tống, thẳng ruỗi đến Quế-Châu gần An-nam, nước ấy thường đem voi cống (...) Nhà vua thường mở cuộc đấu voi để xem hơn thua”.
Việt sử tiêu án của Ngô Thì Sĩ chép: “Vua Nguyên nghe tin vua Thái Tôn mất, có ý muốn lấy đất, sai Sài Xuân đến lấy cớ rằng vua ta không thỉnh mệnh vua Nguyên mà tự lập làm vua, trách bắt vua ta phải vào chầu (…) Xuân trở về, vua sai Trịnh Đình Toản sang Nguyên dâng con voi đã dạy thuần, người Nguyên giữ sứ thần ta ở lại không cho về”.
Toàn thư chép: “Mậu Dần [1278] Vua Nguyên nghe tin Thái Tông băng, có ý mưa tính nước ta, sai Lễ bộ thượng thư Sài Xuân sang ta. Bấy giờ sứ nước ta là Lê Khắc Phục đang trở về, gặp quân Nguyên đánh nước Tống, liền theo đường Hồ Quảng mà về nước, Xuân cùng đi với Khắc Phục sang ta lấy cớ vua không xin mệnh mà tự lập, dụ bảo phải sang chầu. Vua không nghe sai Trịnh Đình Toản, Đỗ Quốc Kế sang Nguyên. Nguyên giữa Đình Toản không cho về (…) Canh Thìn [1280] Trịnh Giác Mật ở đạo Đà Giang làm phản. Vua sai Chiêu Văn Vương Nhật Duật đi dụ hàng. Bấy giờ, Nhật Duật coi đạo Đà Giang, ngầm đem quân thuộc hạ đến. Trịnh Giác Mật sai người đến quân doanh, bày tỏ lòng thành: "Mật không giám trái mệnh. Nếu ân chúa một mình một ngựa đến thì Mật xin hàng". Nhật Duật nhận lời chỉ đem 5, 6 tiểu đồng cùng đi. Quân sĩ ngăn lại, Nhật Duật nói: "Nếu nó giáo giở với ta thì triều đình còn có vương khác đến". Khi tới trại, người Man dàn vây mấy chục lớp và đều cầm đao thương chĩa vào phía trong. Nhật Duật đi thẳng vào, trèo lên trại. Mật mời ông ngồi. Nhật Duật thạo biết tiếng nói và am hiểu phong tục của nhiều nước, cùng ăn bốc, uống bằng mũi với Mật. Người Man thích lắm. Khi Nhật Duật trở về, Mật đem gia thuộc đến doanh trại đầu hàng. Mọi người đều vui lòng kính phục vì không mất một mũi tên mà bình được Đà Giang. Đến khi về kinh sư, [Nhật Duật] đem Mật và vợ con hắn vào chầu, vua rất khen ngợi ông. Sau đó, vua cho Mật về nhà, giữ con hắn ở lại kinh đô. Nhật Duật mến nuôi hết lòng, xin triều đình ban tước thượng phẩm và cho vào trông ao cá, sau cũng cũng cho về nhà”.
- Trong 3 người được chép đến trong Nguyên sử thì Đỗ Quốc Kế giữ chức ngự sử trung tán kiêm tri thẩm hình viện sự và vị họ Phạm giữ tước minh tự, nhưng không thấy nhắc đến chức tước của Trịnh Quốc Toản. Trung tán thì được cử đến đón Sài Xuân và minh tự được lệnh gửi thư tạ tội. Như thế Trịnh Quốc Toản trong đoàn sứ có nhiệm vụ quản dẫn voi.
- Theo Lê Tắc thì voi đối với người Mông Cổ còn khá tò mò, vua thường mở cuộc đua. Việc Trịnh Quốc Toản trước sau bị câu lưu tại Ung Châu và Hội đồng quán rất có thể do liên quan tới voi.
- Trong các quý tộc nhà Trần người viết xin lưu ý tới Nhật Duật, vị vương mà theo Toàn thư mục năm 1300 chép “Nhật Duật thích chơi với người nước ngoài, thường cưỡi voi đến chơi thôn Bà Già (thôn này hồi Lý Thánh Tông đánh chiếm Chiêm Thành, bắt được người Chiêm cho ở đấy, lấy tiếng Chiêm đặt tên là Đa Gia Ly, sau gọi sai thành Bà Già) có khi ba, bốn ngày mới về”.
Ghi chú số 4: Nguyên sử. An Nam truyện, Thế Tổ bản kỷ chép việc Nguyên sai sứ vào ngày Nhâm Tý tháng 11 năm Chí Nguyên 16 tức ngày 13 tháng 12 năm 1279. Nguyên sử. Lương Tằng truyện chép năm Chí Nguyên 17 (1280) Tằng cùng với Sài Thung đến An Nam. Như vậy là bọn Sài Thung đã đi vào cuối năm 1279 và đến Đại Việt vào năm 1280. Trong năm Chí Nguyên 17, Thế Tổ bản kỷ còn chép mấy việc sau: “Ngày Bính Thân tháng 10 (21-11-1280) sai sứ dụ Java và Giao Chỉ”. “Ngày Canh Tuất tháng 11 (5-12-1280) sai Kho-rơ-khô-xun (Qorqosun, Bản kỷ chép là Hòa Lễ Hoắc Tôn) chọn thải sứ nước Giao Chỉ, trừ những kẻ có thể lưu, còn lại thả cho về”. “Ngày Bính Thân tháng 12 (21-l-1281) nước An Nam sai cống voi”.
- Trước hết, khi Sài thượng thư đưa Đỗ Quốc Kế về nước vào mùa xuân thì đến mùa đông, Trịnh Giác Mật ở đạo Đà Giang làm phản. Thật khéo trùng hợp khi Giác Mật cùng họ Trịnh với Đình Toản. Lại thêm sự kiện Mật thách đố Chiêu Văn vương rằng “Nếu ân chúa một mình một ngựa đến thì Mật xin hàng” làm liên tưởng đến tình thế Trịnh Đình Toản đi sứ đến chỗ địch. Sau cùng nhiệm vụ của Đình Toản là quản dẫn voi. Nên tôi cho rằng: Đình Toản cùng gia tộc họ Trịnh với Giác Mật.
- Toàn thư chép là Trịnh Đình Toản. Nguyên sử chép là Trịnh Quốc Toản. An Nam chí lược bản tại web [https://zh.wikisource.org] có 5 chỗ đều chép là Trịnh Đình Toản. Bản tại web [https://ctext.org] có 2 chỗ [Đại Nguyên phụng sự] chép là Trịnh Quốc Toản và 3 chỗ [Chinh thảo vận hướng, Sứ thần các triều đại] chép là Trịnh Đình Toản.
- Việc An Nam chí lược tồn tại bản chép Trịnh Quốc Toản cũng như ghi chép của Nguyên sử củng cố thêm cho giả thuyết của hai tác giả Hà Văn Tấn và Phạm Thị Tâm rằng đã có sự nhầm lẫn trong An Nam chí lược khi chép Trần Quốc Toản thành Trịnh Đình Toản.
(5) Sách Cuộc kháng chiến chống xâm lược Nguyên Mông thế kỷ XIII của hai tác giả Hà Văn Tấn và Phạm Thị Tâm viết: “Từ cuối tháng giêng âm lịch, bọn đại vương Giảo Kỳ, hữu thừa Toa Đô, tả thừa Tang-gu-tai, tham chính Khê-đê từ Chiêm Thành đánh vào Bố Chính (các huyện Quảng Trạch, Bố Trạch tỉnh Quảng Bình) rồi tiến ra Nghệ An. Trần Nhật Duật và Trịnh Đình Toản (Trần Quốc Toản ?) chống cự ở Nghệ An không cản được địch, phải rút lui (...) Ngày Giáp Thìn mồng 1 tháng 2 âm lịch (8/3/1285) Trần Kiện đã cùng với bọn Lê Trắc và gia thuộc hàng giặc (...) Ngày Ất Tị mồng 2 tháng 2 (9/3/1285) Giảo Kỳ đem quân lội qua cửa nam cửa kênh Vệ Bố [huyện Quảng Xương tỉnh Thanh Hóa] Ở đây, tướng Trần là Đinh Xa và Nguyễn Tất Thống bị hy sinh. Ngày Kỷ Dậu mồng 6 tháng 2 (13/3/1285) Trần Kiện lại dẫn đường cho bọn Giảo Kỳ đánh Chiêu Minh vương Quang Khải ở bến Phú Tân. Tham gia chiến đấu ở Thanh Hóa bấy giờ còn có Văn Túc vương Đạo Tái, Tá Thiên vương Đức Việp và Chiêu Hiếu vương (chưa rõ tên). Chiêu Hiếu vương và đại liêu Hộ đã bị hy sinh. Quang Khải liền lui quân”.
- Tác giả của An Nam chí lược và cũng chính là người trực tiếp tham gia cuộc chiến viết rằng “thế tử thấy việc nguy cấp” như thế rõ rằng Trần Kiện được lệnh đưa quân từ Nam Định sang Thanh Hóa sau khi Trần Nhân Tông được tin Chiêu Văn vương bị thua tại Nghệ An. Lê Tắc viết thêm “dằng dai lâu ngày rồi sức yếu, lại không có quân tiếp viện” nên ngày 1 tháng 2 Trần Kiện ra hàng. Ghi chép này không phải không có cơ sở vì ngày 2 tháng 2 quân do Chiêu Minh vương mới đến sông Vệ Bố nên dự là Trần Kiện chống giữ quãng 5 - 10 ngày tại Thanh Hóa trước khi ra hàng.
- Các sự kiện diễn ra gấp gáp và đều liên quan tới Chương Hiến hầu và Lê Tắc nên giả thuyết rằng tác giả của An Nam chí lược nhầm lẫn giữa Trần Quốc Toản với Trịnh Đình Toản rất khó thuyết phục. Nên sự sai lệch văn bản nếu có hẳn phải do người đời sau sao chép đã cố tình sửa lại. Họ thấy trước và sau đều có chép Trịnh Đình Toản nên đã sửa Trần Quốc Toản thành Trịnh Đình Toản.
- Rắc rối khi xem các sự việc tương tự như mục các vương hầu nội phục trong An Nam chí lược có chép về Chương Hoài thượng hầu Trần Văn Lộng trong khi mục tự sự lại chép Chương Hoài hầu Trần Tuyên Ủy. Thật khó giải thích vì sao người sao chép lại chỉ sửa chỗ này mà không sửa chỗ khác và quan trọng hơn cả là chúng ta chỉ phỏng đoán như vậy chứ không hề có bằng chứng cho việc can thiệp vào văn bản của trường hợp Trịnh Đình Toản.
- Viện đại học Huế qua bản dịch ngầm cho rằng người đi cùng Chiêu Văn vương vào Nghệ An để chống Toa Đô là Trịnh Đình Toản bằng cách xếp chữ Hầu cho Chiêu Văn vương nên bản dịch của họ như sau “Thế tử sai em là Chiêu Văn vương Trần Duật Hầu, Trịnh Đình Toản chống cự ở Nghệ An”.
Toàn thư chép: “Canh Tuất [1310] Mùa thu tháng 9 ngày 16, rước linh cữu thượng hoàng về chôn ở lăng Quy Đức, phủ Long Hưng xá lỵ thì cất ở bảo tháp am Ngọa Vân; miếu hiệu là Nhân Tông (…) Trước đó, linh cữu Nhân Tông tạm quàn ở điện Diên Hiền. Khi sắp đưa rước, đã đến giờ rồi mà quan lại và dân chúng còn đứng chật cả cung điện. Tể tướng cầm roi xua đuổi mà vẫn không giãn ra được. Vua cho gọi Chi hậu thánh chưởng Trịnh Trọng Tử tới bảo: "Linh cữu sắp đưa rồi mà dân chúng đầy nghẽn như vậy thì làm thế nào? Ngươi hãy làm cho họ tránh ra". Trọng Tử lập tức đến thềm Thiên Trì, gọi quân Hải khẩu và quân Hổ dực (quân do Trọng Tử trông coi) đến ngồi thành hàng trước thềm, sai hát mấy câu điệu Long Ngâm. Mọi người đều kinh ngạc, kéo nhau đến xem, cung điện mới giãn người, bèn rước [linh cữu thượng hoàng] về lăng Quy Đức. Trọng Tử lo dọc đường thế nào cũng có chỗ cao thấp quanh co, nếu nghiêm túc im lặng, thì sợ có sự nghiêng lệch, nếu truyền gọi bảo ban thì lại e ồn ào, bèn đem những lời dặn về cách đi đứng dàn hàng, phổ vào khúc hát Long Ngâm, sai người hát lên để bảo nhau. Người thời ấy rất ca ngợi ông. Ý tứ khéo léo của ông đại loại như vậy. Vua gọi ông là con nhà trời, vì ông hiểu khắp mọi nghề, lớn nhỏ đều thạo, không việc gì là không biết. Trọng Tử nhiều tài nghệ, như cưỡi ngựa lạ không cần người giỏi cưỡi ngựa chỉ bảo, chỉ nghĩ cách phòng giữ cho ngựa khỏi lồng chạy đá cắn thôi, thế mà thuật cưỡi ngựa không có gì là không biết. Học thuốc thì không cần hỏi thầy thuốc, cứ theo bài thuốc trong sách, xét chứng xem mạch rồi bốc thuốc, mà cũng không sai lầm. Lại đựng vị xuyên khung trong túi vải, cho gia đồng mang theo để lấy hơi người, không sinh mối mọt. Học đánh cờ thì vẽ bàn cờ và quân cờ lên trần nhà, rồi ngồi nhìn và suy tính kỹ càng, người đương thời khen là giỏi cờ. [Trọng Tử] thường mời đạo sĩ làm phép trấn yểm, đạo sĩ vào chổ ngồi, nhưng mọi việc đều do Trọng Tử làm cả, mà đạo sĩ thì không phải nói một lời nào. Khi công chúa Thiên Trân mất, các vương hầu đều tới điếu viếng, thầy cúng làm phép "hú vía" nhưng thiếu người trả lời. Trọng Tử cố hỏi là người trả lời phải đứng ở chỗ nào, rồi đến ngay chỗ khuất người để trả lời, mọi người đều che miệng cười. Đại khái, tài khéo léo của ông đều như thế cả”.
Sách Văn bia Hán Nôm Việt Nam từ khởi thủy đến thời Lý Trần của tác giả Đinh Khắc Thuân viết: “Thanh Mai Viên Thông tháp bi. Năm Tân Dậu niên hiệu Đại Khánh thứ 8 [1321] Thượng phẩm Hoài Ninh hầu thỉnh mời sư đúc một tòa tượng Thiên thủ đại bi, cùng cầu sư truyền thụ bồ đề tâm giới (…) Năm Nhâm Tuất niên hiệu Đại Khánh thứ 9 [1322] trước là Thượng phẩm Hoài Ninh hầu Trịnh Trung Tử muốn thỉnh mời sư giảng hết 9 hội của kinh Hoa Nghiêm, tiếp đó Hoài Ninh hầu cùng chủ sự Tăng Huyền Quang dâng sớ thỉnh mời sư đến chùa Siêu Loại Báo Ân giảng hội thứ 2 kinh Hoa Nghiêm”.
- Nếu chỉ dựa vào Toàn thư thì chúng ta có Trịnh Trọng Tử giữ chức Chi hậu thánh chưởng và trông coi 2 quân Hải Khẩu, Hổ Dực. Nhưng qua bia chùa Thanh Mai, núi Phật Tích, Hải Dương chúng ta biết thêm Trịnh Trọng Tử có tước hiệu Hoài Ninh hầu.
- Như thế rõ là hai tác giả đã dựa vào Toàn thư để đọc An Nam chí lược, nhưng tôi cho rằng 2 sách này có vai trò bổ trợ nhau chứ không phải quan hệ chính phụ, nôm na là dựa vào An Nam chí lược chúng ta biết thêm Trịnh Đình Toản giữ tước hầu. Cũng giống như trường hợp của Hà Bổng mà Toàn thư chép mục năm 1257, sách sử chỉ cho chúng ta biết Bổng được ban tước hầu nhưng lại không cho biết tên hiệu.
- Lại thêm dựa vào ghi chép của Nguyên sử rằng “Ngày Canh Tuất tháng 11 (5-12-1280) sai Kho-rơ-khô-xun (Qorqosun, Bản kỷ chép là Hòa Lễ Hoắc Tôn) chọn thải sứ nước Giao Chỉ, trừ những kẻ có thể lưu, còn lại thả cho về” và ghi nhận của hai tác giả rằng “Năm 1283, vua Trần đưa thư cho A-ric Kha-y-a đòi tha các sứ bị giữ, A-ric Kha-y-a đã thả các sứ ta”. Tôi cho rằng Trịnh Đình Toản được người Nguyên thả cho về trong năm 1283.
- Ngài trở về bản quán tại đạo Đà Giang, sau cùng Chiêu Văn vương cự cánh quân Mông Nguyên từ Vân Nam tiến sang và cũng theo Trần Nhật Duật vào Nghệ An chống Toa Đô. Nên hẳn giữa Chiêu Văn vương và Trịnh Đình Toản phải có mối quan hệ đặc biệt nào đó.
- Sự kiện Trịnh Giác Mật giám chống lại triều đình, cho thấy họ Trịnh ở Đà Giang thế lực không nhỏ, nếu Đình Toản thuộc gia tộc họ Trịnh Đà Giang thì tước hầu của ngài rất có thể được phong trước khi đi sứ. Nhưng sử phương bắc không thấy chép đến tước hầu của ngài thì nó lại ủng hộ kịch bản sau khi đi sứ về Trịnh Đình Toản mới được ban tước. Rất khó để phỏng đoán trong trường hợp này ?
- Nếu người theo Chiêu Văn vương vào trấn Nghệ An là hầu Trịnh Đình Toản thì câu hỏi rằng trong giai đoạn rút lui của Đại Việt Hoài Văn hầu ở đâu mà không thấy sách sử ghi chép vẫn còn nguyên vẹn ?
Toàn thư chép “Canh Thìn [1280] Khi về kinh sư đem Mật và vợ con hắn vào chầu, vua cho Mật về nhà, giữ con hắn ở lại kinh đô. Nhật Duật mến nuôi hết lòng, xin triều đình ban tước Thượng phẩm và cho vào trông ao cá, sau cũng cũng cho về nhà”.
- Giữ con của Giác Mật ở lại kinh sư chẳng qua là đề phòng họ Trịnh theo giặc lại làm phản mà thôi, nhưng thú vị là Trần Nhật Duật mến nuôi hết lòng, việc này có thể tin được vì qua những ghi chép về Chiêu Văn vương thì thấy ngài rất có lòng nhân và gần nhất là trường hợp ngài nhận chăm nuôi rất chu đáo Minh Tông Trần Mạnh như ghi chép của Toàn thư mục năm 1300.
- Thông tin thú vị hơn cả là ngài xin triều đình ban cho con của Giác Mật tước Thượng phẩm. Trước hết, Trịnh Trung Tử cũng giữ tước Thượng phẩm, lại thêm Trung Tử là người họ Trịnh, cuối cùng ngài cùng Tăng Huyền Quang có thỉnh Trúc Lâm thiền phái Pháp Loa giảng kinh Hoa Nghiêm tại Siêu Loại, ngôi chùa có vị trí khá gần sông Như Nguyệt nơi Hoài Văn hầu tử trận.
- Cũng thật trùng hợp khi tước hiệu của Trịnh Trung Tử và Quốc Toản đều có chữ Hoài. Người viết không đủ căn cứ để phỏng đoán mối quan hệ giữa Trung Tử với họ Trịnh Đà Giang.
- Qua trường hợp của Trịnh Trung Tử và con trai của Trịnh Giác Mật người viết cho rằng: trước hết nó củng cố thông tin Trịnh Đình Toản giữ tước hầu và sau cùng cộng thêm việc Trịnh Đình Toản theo Trần Nhật Duật vào tận Nghệ An chống giặc thì rất có thể giữa họ tồn tại mối quan hệ cha con nuôi. Các trường hợp tương tự như Hưng Đạo vương cùng các con giữ mạn đông bắc, Chiêu Minh vương cùng con trấn Thanh Hóa.
(6) Chúng ta đã tới cùng việc phân tích thông tin để tìm ra manh mối, nhưng rốt lại là tình trạng bế tắc, vì thế người viết xin đưa ra giả thuyết để giữ vai trò khai thông, tôi cho rằng: Trịnh Đình Toản chính là Hoài Văn hầu Quốc Toản.
- Xem Toàn thư có cả thảy 2 chỗ chép về Hoài Văn hầu gồm năm 1282 như sau “Hựu thời, Đế dĩ Hoài Văn hầu Quốc Toản, Hoài Nhân vương kiến tịnh niên ấu, bất hứa dự nghị. Quốc Toản nội tự hoài quý phẫn, thủ ốc cam tử bất giác toái lạn” và năm 1285 như sau “Hạ tứ nguyệt, Đế mệnh Chiêu Thành vương [khuyết danh] Hoài Văn hầu Quốc Toản, tướng quân Nguyễn Khoái, đẳng lĩnh tiệp binh nghịch tặc”. Rõ rằng không chép về Họ của Hoài Văn hầu Quốc Toản.
- Tất nhiên rằng trong những trường hợp không chép về Họ như thế đã trở thành phổ biến trong Toàn thư thì cần phải ngầm hiểu là dựa vào thế thứ triều đại mà xác định. Nói cách khác, lối hiểu phổ biến giúp xác định Quốc Toản mang họ Trần bởi sự kiện được chép trong kỷ nhà Trần.
- Nhưng không phải không có ngoại lệ, lấy Toàn thư mục năm 1278 làm dẫn chứng chẳng hạn, sách sử chép “Chiêu Thánh hạ giá Phụ Trần nhị thập dư niên, sinh nam Thượng vị hầu Tông, nữ Ứng Thuỵ công chúa Khuê”. Sách sử không chép về Họ của Thượng vị hầu Tông và Ứng Thụy công chúa Khuê, nhưng trước đó có chép “Tam nguyệt, Lê Phụ Trần phu nhân Chiêu Thánh công chúa Lí thị hoăng”.
- Việc bổ trợ thông tin cho câu văn cần phải hiểu từ những câu văn khác là phổ biến nhưng khi biên soạn lại sử gia đã can thiệp vào văn bản khiến câu văn mang tính chất bổ trợ bị mất đi như trường hợp dẫn ra bên dưới và người viết ngờ rằng trường hợp của Hoài Văn hầu Quốc Toản là một cụ thể.
Bài Về bản "Đại Việt sử ký toàn thư" in ván gỗ của Phạm Công Trứ mới tìm thấy của tác giả Ngô Thế Long viết: “Hai hiện tượng cô gọn và cắt bỏ là thao tác thông thường của người biên soạn sau. Nhưng đó là những việc biệt lập. Còn những sự việc có liên quan hô ứng đến sử văn của đoạn khác, nếu cắt bỏ không khéo thì lại sinh ra mâu thuẫn, khó hiểu. Chúng tôi xin nêu hai dẫn chứng sau đây: A - Năm Tân Sửu (1601) bản Lê Hi chép việc Trịnh Tùng đem quân đi đánh Nguỵ Nam Dương hầu nhà Mạc. Cuối cùng đã bêu đầu Nam quận công và bắt được em Nam quận. Người đọc không hiểu được quan hệ giữa hai danh hiệu nhân vật Nam Dương hầu và Nam quận là như thế nào. Khi đưa đoạn số 13 năm Canh Tý (1600) ở bản NVH [Nguyễn Văn Huyên] đặt vào cạnh đó (đoạn này nói rõ con Nguyễn Miễn là Nam Dương hầu, Nguyễn Nhậm tự xưng là Nam quận công) thì sự việc sáng rõ ngay. B - Năm Quý Hợi (1623) bản Lê Hi chép việc Trịnh Xuân (con Trịnh Tùng) nổi loạn, đem quân tấn công vương phủ rồi đốt phá Kinh thành Thăng Long, khiến Trịnh Tùng phải chạy ra Hồng Mai, rồi sau chết ở Thanh Xuân. Người đọc không thể hiểu được tại sao lại như thế. Vì trước đó chính bản Lê Hi chép vào năm Kỷ Mùi (1619) sau khi ám sát hụt cha đẻ là Trịnh Tùng thì Trịnh Xuân đã bị phát hiện, bị bắt giam, bị tước hết binh quyền, chờ xét xử. Thế thì làm sao còn có khả năng gây ra vụ việc năm 1623 ? Đọc lại bản NVH ta lại thấy có hai đoạn mà bản Lê Hi lược bỏ: đó là vào năm Canh Thân (1620) Trịnh Tùng đã tha tội cho Trịnh Xuân, trả lại nguyên chức tước và năm Tân Dậu (1621) lại sai Trịnh Xuân đi đánh Cao Bằng. Lúc đó Trịnh Xuân đã hục hặc tranh công với anh là Trịnh Tráng. Do đó, đến năm 1623 khi Trịnh Tùng ốm nặng, muốn truyền ngôi chúa cho Trịnh Tráng, thì nổ ra vụ bạo loạn của Trịnh Xuân, thật là hợp lôgíc. Qua hai dẫn chứng trên, ta thấy Lê Hi đã lược bỏ một số chi tiết mà không chú thích nên gây ra sự thiếu hoàn chỉnh, thiếu nhất quán, khó hiểu”.
- Lo lắng trở nên có cơ sở khi mà đối tượng trong bài viết của tác giả Ngô Thế Long chính là sách mà chúng ta đang sử dụng để khảo sát về Hoài Văn hầu Quốc Toản.
- Cơ sở khác khiến người viết cho rằng Hoài Văn hầu có họ tên Trịnh Quốc Toản, là cả Hoài Văn hầu Quốc Toản và Hoài Nhân vương đều rất hăng hái nhưng do trẻ tuổi không được dự bàn. Thế mà sách sử chỉ ghi chép các hành động của Hoài Văn hầu trong khi Hoài Nhân vương thì không có ghi chép nào ?
- Sự hăng say dũng cảm của Hoài Văn hầu làm liên tưởng tới những thủ lĩnh của các dân tộc miền núi, cụ thể xin dẫn 2 tài liệu bên dưới.
Toàn thư chép: “Ất Dậu [1285] Du binh giặc đến huyện Phù Ninh, viên phụ đạo huyện ấy là Hà Đặc lên núi Trĩ Sơn cố thủ. Giặc đóng ở động Cự Đà. Hà Đặc lấy tre đan thành những hình người to lớn, cho mặc áo, cứ đến chiều tối thì dẫn ra dẫn vào. Lại dùi thủng cây to, cắm tên người lớn vào giữa lỗ để giặc ngờ là sức bắn khoẻ xuyên suốt được. Giặc sợ không dám đánh nhau với Đặc. Quân ta hăng hái xông ra đánh bại được giặc. Đặc đuổi đánh đến A Lạp, bắc cầu phao qua sông, hăng đánh quá bị tử trận. Em là Chương bị giặc bắt, lấy trộm được cờ xí, y phục của giặc trốn về, đem dâng lên, xin dùng cờ ấy giả làm quân giặc, đến doanh trại giặc. Giặc không ngờ là quân ta, do vậy ta cản phá được chúng”.
An Nam chí nguyên chép: “Người Lạo. Các người Lạo trên đây đều ở giáp giới với Lão Qua và Quảng Tây, về tình hình tập quán và thị hiếu của họ lại khác hẳn, không giống nhau (…) Họ hay dùng nhiều cung nỏ và cây thương, họ thích chiến đấu, họ đặt trống đồng ở giữa sàn (…) Các phủ các châu như Tuyên Quang, Quy Hóa, Gia Hưng và Ngọc Ma có người Lạo uống bằng mũi”.
-  Nếu Hoài Văn hầu là Trịnh Quốc Toản thì hẳn là ngài phải trưởng thành nên mới có lệnh quản dẫn voi thuần sang phương bắc cống. Nhưng như thế trái ngược với ghi chép của Toàn thư. Người viết cho rằng vốn tài liệu gốc chép: Hoài Văn hầu là người ngoại tộc, Hoài Nhân vương còn thiếu niên đều không cho dự. Nhưng khi biên soạn lại người đời sau gom chép như chúng ta đã thấy và việc này cũng giúp giải thích được vì sao Toản tuy mang tước hầu nhưng lại được chép trước Kiến mang tước vương.
- Thêm nữa nó cũng góp phần giải thích vì sao Hoài Văn hầu đã rất hổ thẹn và phẫn kích trong khi Hoài Nhân vương lại không tỏ rõ thái độ. Việc Hoài Văn hầu Trịnh Đình Toản đã trưởng thành thì rất khó có mối quan hệ cha con với Chiêu Văn vương, trường hợp Trần Nhật Duật cắt tóc tuyên thệ với Hứa Tông Đạo gợi ý về mối quan hệ anh em kết nghĩa giữa Hoài Văn hầu và Chiêu Văn vương.
- Khảo sát thực địa thì Hoài Văn vương Quốc Toản rất ít được người Việt thờ, có thể ngài thuộc tộc người khác nên như thế chăng. Cũng không loại trừ khả năng giống trường hợp của Khắc Chung được ban quốc tính như tài liệu bên dưới. Toàn thư có chép việc sau khi ngài chết, vua thương tiếc đích thân làm văn tế, gia phong tước vương. Vì chép là Vua nên cái chết của Hoài Văn vương phải nằm trong quãng thời gian Trần Khâm làm hoàng đế (1278-1293) việc này củng cố cho ghi chép của Kinh thế đại điển tự lục.
Toàn thư chép: “Kỷ Sửu [1289] Mùa hạ tháng 4, định công dẹp giặc Nguyên. Tiến phong Hưng Đạo Vương làm Đại Vương, Hưng Vũ Vương làm Khai Quốc công, Hưng Nhượng Vương làm Tiết độ sứ. Người nào có công lớn thì được ban quốc tính. Khắc Chung được dự trong số đó, lại được nhận chức Đại hành khiển. Đỗ Hành chỉ được phong Quan nội hầu, vì khi bắt được Ô Mã Nhi không dâng lên quan gia, lại dâng lên Thượng hoàng. Hưng Trí Vương không được thăng trật, vì đã có chiếu cho người Nguyên về nước, các tướng không được cản trở, mà lại còn đón đánh chúng. Cho Man trưởng Lạng Giang Lương Uất làm trại chủ Quy Hóa. Hà Tất Năng làm Quan phục hầu vì đã chỉ huy người Man đánh giặc”.
Toàn thư chép: “Nhâm Thìn [1232] Tháng 2, thi thái học sinh. Đỗ đệ nhất giáp là Trương Hanh, Lưu Diễm; đệ nhị giáp là Đặng Diễn, Trịnh Phẫu; đệ tam giáp là Trần Chu Phổ (...) Ất Dậu [1285] Chiêu Quốc Vương Trần Ích Tắc và bọn Phạm Cự Địa, Lê Diễn, Trịnh Long đem gia thuộc đầu hàng quân Nguyên (…) Đinh Hợi [1287] Tháng 11 ngày 14, Trịnh Xiển tâu rằng thái tử Nguyên A Thai xâm phạm ải Phú Lương (...) Canh Tý [1300] Ông lại khéo tiến cử người tài giỏi cho đất nước, như Dã Tượng, Yết Kiêu là gia thần của ông, có dự công dẹp Ô Mã Nhi, Toa Đô. Bọn Phạm Ngũ Lão, Trần Thì Kiến, Trương Hán Siêu, Phạm Lãm, Trịnh Dũ, Ngô Sĩ Thường, Nguyễn Thế Trực vốn là môn khách của ông, đều nổi tiếng thời đó về văn chương và chính sự”.
Tiểu kết: Tôi giả thuyết rằng Hoài Văn hầu có họ tên Trịnh Đình Toản hoặc Trịnh Quốc Toản, thuộc gia tộc họ Trịnh đạo Đà Giang và có mối quan hệ anh em kết nghĩa với Chiêu Văn vương Trần Nhật Duật.