Thứ Sáu, 9 tháng 2, 2018

Bàn về Nguyễn Nộn và công chúa Ngoạn Thiềm

(1) Toàn thư chép: “Mậu Dần [1218] Mùa thu tháng 8, xuống chiếu bắt cư sĩ ở chùa Phù Đổng là Nguyễn Nộn, vì bắt được vàng ngọc mà không đem dâng (…) Kỷ Mão [1219] Mùa xuân tháng 2, Trần Tự Khánh tâu xin tha cho Nguyễn Nộn, cho đi theo quân đánh giặc để chuộc tội, vua y cho. Mùa đông tháng 10, sai Nguyễn Nộn đem quân đi đánh giặc Man ở Quảng Oai (…) Canh Thìn [1220] Mùa xuân tháng 3, Nguyễn Nộn giữ hương Phù Đổng, tự xưng là Hoài Đạo vương, dâng biểu xưng thần, xin đi dẹp loạn để chuộc tội, vua sai người đem sắc thư đến tuyên dụ, song vì vua có bệnh phong, không thể chế ngự được (…) Quý Mùi [1223] Tháng 12, thế quân của Nguyễn Nộn ngày càng mạnh (…) Bính Tuất [1226] Sai Trần Thủ Độ đem quân đi đánh Nguyễn Nộn, Đoàn Thượng và các man [vùng núi Tản Viên và Quảng Oai] Mậu Tí [1228] Tháng 12, Nguyễn Nộn đánh giết Đoàn Thượng. Nộn đã phá được Thượng, nhân gộp cả quân của Thượng, cướp bắt con trai, con gái, tài sản, trâu ngựa đất Hồng Châu. Con Thượng là Văn đem gia quyến đến hàng. Thanh thế của Nộn rất lẫy lừng, Thủ Độ lo lắm, chia quân chống giữ và sai sứ đem thư đến chúc mừng, gia phong Nộn làm Hoài Đạo Hiếu Vũ vương, đưa công chúa Ngoạn Thiềm gả cho hắn để ngầm do la tin tức. Nộn cũng chia nha tướng cho công chúa, vì thế công chúa không thể báo được tin gì (…) Kỉ Sửu [1229] Nguyễn Nộn ốm chết. Sau khi kiêm tính được Thượng, Nộn xưng là Đại Thắng vương, chè chén chơi bời bừa bãi. Nhưng Nộn cũng biết thế không thể cùng đối lập với nhà Trần, định đến tháng 10 sẽ vào chầu, song còn do dự chưa quyết. Đến khi ốm nặng, vua sai nội nhân đến thăm hỏi, Nộn cố gượng ăn cơm, phi ngựa để tỏ ra còn khỏe mạnh, không bao lâu thì chết. Người dưới quyền là Phan Ma Lôi ngầm phóng ngựa chạy trốn, không biết đi đâu. Ma Lôi người Chiêm Thành, buôn bán ở Ai Lao, được Nộn nhận làm nô, có tài chủ động đánh thắng, dùng binh như thần” [Bản dịch của Viện khoa học xã hội Việt Nam]
Việt sử lược chép: “Quý Dậu [1213] Mùa xuân tháng giêng, Tự Khánh sai người đi Bắc Giang triệu viên tướng Nguyễn Nộn. Nộn đến bị trói bằng dây thép 5 vòng (…) Tháng 9, Tự Khánh cởi trói cho Nộn (…) gả con gái của người dì cho Nộn và cho 2 ấp Thần Khê, Cả Lũ (…) Giáp Tuất [1214] Tháng giêng, Chương Thành hầu Tự Khánh họp binh các đạo thề ở đền Đỗ thái úy ở Đông Phù Liệt, định đánh kinh sư (…) Phan Lân, Nguyễn Nộn đem quân ở Quốc Oai theo đạo Bình Lạc mà đánh bằng đường bộ [sau khi lấy được kinh thành, Tự Khánh dùng] Nguyện Nộn giữ Bắc Giang (…) Vua nghe tin Nộn giữ Bắc Giang, bèn sai tướng An Thiết là bọn Thân Trường, Thân Cải cự chiến ở cánh đồng Nhuế Duệ, đều bị Nộn giết cả (…) Mùa hạ tháng 4, Nguyễn Nộn ở Bắc Giang làm phản, Tự Khánh nhân thế cho vợ nó về. Tự Khánh giết Nghĩa Tín vương ở Dao Đàm, lấy cớ vương cùng Nộn có thông mưu (…) Tháng 6, Tự Khánh tiến đánh Nộn ở cung Thánh Nghi, đốt cung đó (…) Vua cùng thái hậu ở Nam Sách trở về ngự ở Thái Thất, cho tướng quân đạo Bắc Giang là Nguyễn Nộn tước hầu (…) Ất Hợi [1215] Tháng 2, phong Bắc Giang hầu Nguyễn Nộn tước vương (…) Bính Tí [1216] Tháng 5, thái hậu đến An Xướng, lúc bấy giờ Nộn, [Hà] Cao [ở Quy Hóa] lấy mệnh lệnh của thái hậu đánh các ấp ở Từ Liêm đều hạ được (…) Vua xuống chiếu đầy Nộn làm lính (…) Đinh Sửu [1217] Mùa hạ tháng 4, thái úy chia chư quân thành 6 đạo đi dẹp Nộn (…) quân Nộn tan vỡ [ở ải Đạo] Mậu Dần [1218] Đức thái tổ [Trần Thừa] lĩnh các đạo binh đi đánh Nguyễn Nộn ở Bắc Giang (…) quân Nộn bị tan vỡ, bắt được vợ con Nộn. Nộn đem hơn trăm người lui giữ Phù Ninh (…) Kỉ Mão [1219] Mùa hạ tháng 6, vua ngự ra bến Triều Đông ở cửu kinh xem chư quân đánh Nộn, nhưng không thắng (…) Thái úy theo đường bộ đến cầu An Đinh, gặp tướng quân Tự Khiêu nói quân Nộn đã đến động An Đinh, thái úy sai tiến đánh, nhưng không thắng (…) Mùa đông tháng chạp, Nộn bị bệnh nặng. Thái úy đem quân về bến Triều Đông, thì Nộn đã chết (…) Tướng của Nộn là Phí Thám nộp thái hậu và các công chúa con vua cho thái úy mà hàng. Đại tướng của Nộn là Nguyễn Doanh trốn vào rừng hiểm Thị hàng, qua 5 ngày tự thấy kế đã cùng bèn dâng con danh mã mà hàng. Bắc Giang được bình” [Bản dịch của dịch giả Trần Quốc Vượng]
– Trên là 2 tài liệu rất quan trọng ghi chép về Nguyễn Nộn. Thế nhưng dễ dàng nhận ra sự sai khác rất lớn giữa 2 tài liệu này. Nếu như Việt sử lược chép rằng Nguyễn Nộn chết vào năm 1219 thì Toàn thư chép rằng Hoài Đạo vương chết vào năm 1229. Việc trước nhất mà chúng ta có thể thấy từ 2 tài liệu này là Việt sử lược chép cách sự kiện khoảng 150 năm, trong khi Toàn thư cách khoảng 450 năm. Sau cùng những sự kiện liên quan tới Nguyễn Nộn trong Việt sử lược đều rất chặt chẽ. Chẳng hạn như sự kiện Tự Khánh triệu viên tướng ở Bắc Giang là Nguyễn Nộn, khi Nộn đến thì bị Tự Khánh trói 5 vòng bằng dây thép xảy ra vào tháng 1/1213. Sự kiện này có liên quan tới sự kiện trước đó cũng vào tháng 1/1213, ấy là thái hậu ngầm sai tên tiểu thị vệ hỏa đầu Vương Thường vời bọn tướng ở đạo Phù Lạc là Phan Thế, ở đạo Bắc Giang là Ngô Nãi, phát binh tấn công Tự Khánh tại kinh thành, buộc mẹ của Tự Khánh là Tô thị và vợ của Tự Khánh là Phạm thị vượt tường chạy trốn, trong lúc này Khánh đang đóng quân ở bến Đại Thông, khi biết tin Khánh đã rất tực giận kéo quân tấn công kinh thành nhưng không lợi nên buộc phải rút về bến Đại Thông. Sau cuộc tấn công bí mật vào kinh thành, Phan Thế và Ngô Nãi đã giải cứu được Huệ Tông và thái hậu. Hai đạo quân giải cứu theo yêu cầu của thái hậu xuất phát từ Bắc Giang, nơi Nguyễn Nộn chịu trách nhiệm quản lý, chính vì thế mà Tự Khánh đã xử phạt Nguyễn Nộn.
– Hay như sự kiện Nguyễn Nộn được Tự Khánh thả vào tháng 9/1213, rồi lại còn gả cả em gái, con của người dì và tặng cho Nộn 2 đất Thần Khê, Cả Lũ nữa. Hành động này của Tự Khánh sẽ được thấy rõ mục đích liên quan tới sự kiện xảy ra vào tháng 1/1214 khi Phan Lân và Nguyễn Nộn dẫn đạo quân đường bộ tấn công kinh sư từ Quốc Oai. Tự Khánh đã chuẩn bị rất kỹ cho cuộc tấn công kinh sư này và hướng từ Quốc Oai không ai đảm nhiệm tốt hơn Nguyễn Nộn. Hay như sự kiện Nguyễn Nộn làm phản Tự Khánh vào tháng 4/1214, không phải tự dưng Nguyễn Nộn làm phản, mà do Nguyễn Nộn bị tác động rất lớn bởi cuộc làm phản của Phan Cụ và Đỗ Bị ở Cam Giá trước đó, trong cùng tháng 4/1214. Phan Lân, rồi Lại Linh và cả Trần Thừa đều thất bại trong việc thu phục Đỗ Bị, chính việc này đã tác động rất lớn tới Nguyễn Nộn trong quyết định làm phản. Khi biết tin Nộn làm phản, Tự Khánh đã thả cho người em gái con bà dì cũng là vợ của Nộn về Bắc Giang với mục đích thăm dò, khuyên nhủ. Nhưng về phía của Nộn, Nộn đã lên kế hoạch tấn công Tự Khánh tại kinh thành thông qua việc liên kết với Nghĩa Tín vương, kết quả mưu tính của Nộn đã thành công, Nộn lấy được kinh thành, Tự Khánh đã rất tức giận nhưng cũng chỉ có thể giết Nghĩa Tín vương, sai Lại Linh đốt cung thất và đem tài vật của kinh thành và vị vua mới lập Nguyên vương về Lị Nhân.
– Làm chủ được kinh sư, Nguyễn Nộn ngầm thông mưu với tướng của Tự Khánh là Phan Lân, người cùng với Nộn tấn công kinh sư từ phía Quốc Oai, nhưng bị Tự Khánh phát hiện nên Lân bị Khánh giết. Sau khi ổn định ở bến Đại Thông, Khánh tấn công Nộn ở kinh thành nhưng thất bại. Nộn một mặt chống Tự khánh, một mặt sai người tìm kiếm tung tích của Huệ Tông, kết cục vua và thái hậu ở Nam Sách về ngự ở Thái Thất, ban cho Nộn tước Bắc Giang hầu. Rối vào tháng 2/1215 thì Nộn được tấn phong Bắc Giang vương.
– Ngược lại, những thông tin chép trong Toàn thư lại khá ảo, như sự kiện xảy ra vào tháng 8/1218, ấy là xuống chiếu bắt cư sĩ ở chùa Phù Đổng là Nguyễn Nộn với lý do là Nộn bắt được vàng nhưng không đem dâng. Chính vì sự kiện mờ ảo này, mà tôi nhận định Toàn thư đã gom những yếu tố, sự kiện trong truyền thuyết kể về Nguyễn Nộn để chép thành. Thực ra trước Việt sử lược và sau Toàn thư còn 2 cuốn sách nữa chép về Nguyễn Nộn đó là An Nam chí lược và Cương mục.
An Nam chí lược chép: “Lúc ấy tướng giặc châu Quốc Oai là Nguyễn Niên, xưng hiệu Kim Thiên đại vương, cùng với người Hồng Lộ là Đoàn Ma Lôi nổi dậy làm phản. Trần Thừa cùng em là Kiến Quốc đánh không yên được, bèn giảng hòa với Ma Lôi, hợp sức đánh Niên, bị Niên đánh bại. Sau Niên chết loạn mới yên, Thừa có công đánh giặc, xin cho con kết hôn với công chúa Chiêu Thánh, vương bằng lòng. Hạo Sám không có con trai, lập Chiêu Thánh nối ngôi, lui ở chùa Chân Giáo học phật rồi mất” [Bản dịch của Viện Đại học Huế]
Cương mục chép: “Canh Thìn [1220] Mùa xuân tháng 3, Nguyễn Nộn giữ làng Phù Đổng, tự xưng là Hoài Đạo vương. Nộn là cư sĩ chùa Phù Đổng, vì bắt được vàng ngọc không đem dâng triều đình, nên nhà vua hạ chiếu bắt (…) Lời chua: Phù Đổng tên làng, nay là xã Phù Đổng huyện Tiên Du. Nguyễn Nộn người làng Phù Minh, huyện Tiên Du” [Bản dịch của Viện sử học]
– Càng thêm tư liệu thì các thông tin về Nguyễn Nộn càng lệch nhau, nếu như Việt sử lược cho rằng Nộn là bộ tướng của Tự Khánh thì Toàn thư cho rằng Nộn là cư sĩ của chùa Phù Đổng. Cương mục chép rõ hơn người làng Phù Minh, huyện Tiên Du. Trong khi An Nam chí lược chép Nộn người Quốc Oai. Vậy Nộn người ở đâu ? Tôi cho rằng Nguyễn Nộn người Quốc Oai, Lê Tắc đã đúng. Trước hết, An Nam chí lược là bộ sách được chép gần với sự kiện nhất. Lê Tắc sống cách Nộn chưa đến 100 năm. Tắc cũng là người học rộng. Sau cùng, có vài sự kiện cho thấy Nộn có liên quan tới Quốc Oai như sự kiện chép trong Việt sử lược tại mục năm 1214 khi Nộn được Trần Tự Khánh giao quyền cho lãnh đạo cánh quân tấn công bằng đường bộ từ phía Quốc Oai vào kinh thành. Rồi thêm, theo như Việt sử lược mục năm 1211, sau khi bộ tướng của Nguyễn Tự là Nguyễn Thử báo với Tô Trung Tự rằng Nguyễn Tự định giết con rể Tô Trung Tự là Nguyễn Ma La rồi làm phản, Tô Trung Tự đã rất tức giận, liền tước hết binh quyền của Nguyễn Tự, Nguyễn Tự sợ hãi chạy về Quốc Oai, sau nghe tin Tô Trung Tự chết, Nguyễn Tự liền dẫn người Quốc Oai đến cướp phủ vua, nên vua ra chiếu truy bắt, Nguyễn Tự sợ hãi chạy về Khô Sách, khi hết lương đã tính theo về với Tự Khánh, như thế khả năng rất lớn là Nguyễn Tự người Quốc Oai, có mối quan hệ với Tự Khánh thông qua Tô Trung Tự, vì Tô Trung Tự vừa là chủ tướng của Nguyễn Tự cũng vừa là cậu của Trần Tự Khánh, nên sẽ rất hợp lý nếu Nguyễn Nộn là người Quốc Oai, do đó chắc chắn sẽ cùng trong gia tộc với Nguyễn Tự và như thế sẽ có liên quan tới Tự Khánh.
– Ghi chép của An Nam chí lược về quê quán của Nguyễn Nộn không hề mẫu thuẫn, thậm chí còn giúp lý giải thêm cho các sự kiện xảy ra trong Việt sử lược. Tuy nhiên có 1 việc mà An Nam chí lược có vẻ như lệch so với Việt sử lược, ấy là về tước hiệu. Nếu An Nam chí lược chép Nộn xưng là Kim Thiên đại vương thì Việt sử lược chép rằng Nộn được phong tước Bắc Giang vương. Toàn thư cho biết Nộn giữ hương Phù Đổng tự xưng là Hoài Đạo vương vào tháng 3/1220. Muốn biết được vì sao các bộ sử lại ghi chép như vậy, thì chúng ta cần phải bắt đầu từ một vị thần trong Tứ bất tử của người Việt, đó là thánh Gióng.
(2) Việt điện u linh chép: “Xung thiên dũng liệt chiêu ứng uy tín đại vương. Xét truyện Báo Cực chép rằng: Đời truyền Vương vốn là thần Thổ Địa chùa Kiến Sơ giáng sinh. Xưa kia Thiền sư Chí Thành ở chùa Kiến Sơ tại làng Phù Đổng có lập đền thờ Thổ Địa ở bên hữu chùa để làm nơi tụng niệm cho thanh tĩnh. Năm tháng chầy lâu, mất cả sự tích, bọn thầy tang môn không rõ chứng cứ. Thổ dân bản xứ ưa việc ma quỷ thì đốt hương khấn vái, lạm xưng là Dâm Từ. Kịp đến lúc Thiền sư Đa Bảo sửa lại chùa, cho đền thờ ấy là Dâm Từ muốn đập phá đi. Ngày kia ở gốc cây cổ thụ nơi Thần từ có đề bài kệ rằng: Phép Phật ai gìn giữ – Đợi nghe lời Kỳ viên – Nếu không ta vun quén – Sớm theo chỗ khác thiên – Chớ chở Kim Cương bộ – Dầu mật chớ lan truyền – Đầy không, trần vài đứa – Tu Phật thành oan khiên. Cách đó ít lâu, Thần lại ứng hiện tám câu kệ rằng: Phép Phật từ bi lớn – Uy quang trùm mọi miền – Muôn thần đều thụ hóa – Ba giới thảy lan tràn – Sư ta hành hiệu lệnh – Tà quỷ ai dám trên – Nguyện thường theo thụ giới – Lớn nhỏ hộ Kỳ viênSư lấy làm lạ, mới lại thiết đàn làm chay, cúng dùng toàn đồ chay cả. 
Vua Thái Tổ đang lúc tiềm long, biết sư Đa Bảo là người có hạnh cao mới kết làm đàn việt. Sau khi đã chịu truyền ngôi, thân ngự đến chùa, nhà sư đón giá đi ngang qua bên chùa; Sư lớn tiếng hỏi rằng: Phật tử, ngươi hãy thung dung mừng tân thiên Tử chứ ? Nghe có tiếng: Vâng! Tức thì thấy da cây có đề bốn câu thơ rằng: Để đức càn khôn lớn – Oai thanh lặng tám miền – Cõi âm nhờ ân huệ – Nhuần thấm đền Xung Thiên. Thái Tổ xem thấy liền đọc biết được ý tứ, bèn ban hiệu là Xung Thiên Thần Vương; bài thơ tự nhiên biến mất. Vua lấy làm lạ, mới bảo thợ tạc tượng thần, nghi dung hùng vĩ, và tám người đứng hầu. Sơn thếp xong rồi thì làm lễ cáo thành, lại thấy ở dưới cây đại thụ có đề bốn câu thơ: Một bát nước công đức – Theo duyên hóa thế gian – Sáng choang còn chiếu đuốc – Bóng tắt, nhật lên non. Nhà Sư đem bài kệ ấy tâu lên vua, nhưng vua Thái Tổ không hiểu là nói gì. Sau triều Lý được tám đời, truyền ngôi cho nhà Trần. Chứ bát cùng chữ bát đồng âm, nhất bát như bát. Vua Huệ Tông tên là Sản trên chữ nhật, dưới chữ sơn, nên gọi là nhật đăng sơn, thì ra thần diệu như thế. 
Niên hiệu Trùng Hưng năm đầu, sắc phong Dũng Liệt Đại Vương. Năm thứ tư, gia phong hai chữ Chiêu Ứng. Năm Hưng Long thứ hai mươi mốt, gia phong hai chữ Uy Tín.
Tiếm bình [của Cao Huy Diệu]
Chùa Kiến Sơ nay ở tại làng Phù Đổng, bên đền thờ Thiên Vương, thời Xung Thiên Thần Vương tức là huy hiệu Thiên Vương. Việt Sử chép vua Lý Thái Tổ truy phong Xung Thiên Thần Vương, dựng miếu bến chùa Kiến Sơ, thì rõ ràng là việc của Thiên Vương, mà sao đày lại chép là việc thần Thổ Địa, thì chẳng biết ra làm sao vậy” [Bản dịch của dịch giả Lê Hữu Mục]
Việt điện u linh chép: “Bài ký sự tích Sóc Thiên vương [của Nguyễn Văn Hiền] Xét sách Thiền Uyển Tập Anh, đời Lê Đại Hành hoàng đế, Đại sư Khuông Việt họ Ngô thường đi chơi núi Vệ Linh ở quận Bình Lỗ, ngắm xem phong thuỷ, thấy cảnh trí rất đẹp nên muốn dựng từ am ở đó. Đêm mộng thấy một vị thần mình mặc áo giáp vàng, tay bên tả cầm giáp vàng, tay bên hữu xách cái bảo tháp, theo sau hơn mười người, trạng mạo cổ quái đáng sợ, đến trước bảo rằng: Ta là Tỳ Sa Môn Đại Vương, kẻ tuỳ tùng đều là quỷ Dạ Soa cả, Thiên đế có sắc bảo qua ở nước này để phù hộ cho hạ dân, với người có duyên nên mới đến đây nói chuyện. Sư giật mình tỉnh dậy kinh hãi, nghe trong núi có tiếng hò hét, lòng rất lấy làm ghét. Sáng ngày, Sư vào núi thấy một cây rất to, cành lá rườm rà, lại có mây sắc trùm trên ngọn cây, mới bảo thợ rừng đốn xuống, quả y như trong mộng, liền khắc tượng lập đền. Năm Thiên Phúc nguyên niên, quân Tống vào cướp, vua nghe đền nay linh ứng, bảo Sư đến đền cầu đảo. Lúc bấy giờ quân nhà Tống đóng trong làng Tây Kết, hai bên chưa đánh nhau, quân Tống tự nhiên kinh hãi, kéo lui đóng ở sông Chi Giang, lại gặp sóng cả gió to, giao xà nổi dậy, quân đều kinh sợ mà bỏ chạy; Tướng nhà Tống là Quách Quỳ kéo quân trở về Tàu. Vua lập thêm đền thờ và phụng tự. 
Hoặc có kẻ nói các cố lão tương truyền rằng không nhớ về đời nào, Thiên vương sinh ở một làng kia, lúc còn nằm nôi, trong nước có giặc, vua sai sứ giả đi mộ khắp dân gian xem có ai phá được giặc thì ban cho tước lộc. Thiên vương dậy hỏi mẹ, mẹ mới bảo rõ ràng như vậy, Thiên vương nói: Thế thì mẹ đem nhiều cơm đến đây cho con ăn. Chốc lát ăn hết vài đấu cơm. Vài tháng sau, cao lớn hơn mười trượng, tự ra ứng mộ, Sứ giả đưa đến Kinh sư, vua trông thấy cả mừng hỏi rằng: Bây giờ ngươi muốn xin gì? Tâu: Xin cho một thanh gươm dài, và một con ngựa sắt. Vua ban cho, rồi Vương cầm gươm nhảy lên ngựa, hét lên một tiếng, xông vào trong trận, chém quân giặc chết ngổn ngang. Giặc tan rồi, bờ cõi được yên lặng. Thiên vương phi ngựa về núi Vệ Linh, trèo lên cây đa mà bay lên trời, để áo và dấu tích lại, đến nay vẫn còn, nguời trong thôn gọi cây ấy là cây Dịch Phục. Người trong nước lấy làm lạ, lập đền thờ tế, dùng trà bánh đồ chay mà cúng, nếu có cầu khấn việc gì đều được linh ứng. Triều nhà Lý cũng đến cầu đảo, dựng đền thờ ở làng Cảo Hương bên hồ Tây mà thờ tự. Bây giờ làm vị Phúc thần chép tại Tự Điển” [Bản dịch của dịch giả Lê Hữu Mục]
Lĩnh Nam chích quái chép: “Truyện Phù Đổng Thiên Vương. Thời Hùng Vương, thiên hạ thái bình, dân gian giàu có. Vua nhà Ân lấy cớ nước Nam không có triều kiến, sai tuần thú đem quân sang đánh. Hùng Vương nghe tin, triệu tập quần thần hỏi kế chống cự. Có người tâu rằng: “Sao không cầu Long Vương đưa âm quân lên giúp”. Vua nghe lời, bèn ăn chay, lập đàn, bày vàng bạc lụa là lên trên, thắp hương cầu đảo ba ngày. Trời nổi mưa to gió lớn, bỗng thấy một cụ già cao hơn sáu thước, mặt to bụng lớn, mày râu bạc trắng, ngồi ở ngã ba đường mà cười nói múa ca. Những người trông thấy đều cho là kẻ lạ thường, mới tâu lên vua. Vua thân hành ra vái chào, rước vào trong đàn. Cụ già không nói năng cũng không ăn uống. Vua đến hỏi: “Nghe tin quân phương Bắc sắp sang xâm lược, ta thua được thế nào”. Cụ già ngồi im một lúc, kính cẩn rút thẻ ra bói, bảo vua rằng: “Ba năm nữa, giặc Bắc sẽ sang đây”. Vua lại hỏi kế chước ra sao? Cụ già đáp: “Kế giữ nước, ấy là phải nghiêm ngặt chỉnh đốn khí giới, rèn luyện binh lính cho tinh nhuệ, lại phải đi tìm bậc kỳ tài trong thiên hạ, kẻ nào phá được giặc thì phong cho tước ấp, truyền hưởng lâu dài. Nếu được người giỏi, có thể dẹp được giặc vậy”. Dứt lời, bay mất lên không, mới biết đó là Long Quân vậy. Ba năm sau, người biên giới cấp báo có giặc Ân tới. Vua làm theo lời cụ già dặn, sai sứ đi khắp các nơi cầu tìm người hiền tài. Tới làng Phù Đổng, huyện Vũ Ninh, trong làng có một phú ông tuổi hơn sáu mươi, sinh được một bé trai, đã ba tuổi còn không biết nói, nằm ngửa không ngồi dậy được. Người mẹ nghe tin sứ giả tới mới nói giỡn rằng: “Sinh được thằng con trai này chỉ biết ăn, không biết đánh giặc để lấy thưởng của triều đình, báo đáp công ơn bú mớm”. Bé trai nghe mẹ nói, đột nhiên bảo: “Mẹ mời sứ giả tới đây, hỏi xem có việc gì”. Người mẹ kinh ngạc vô cùng, vui mừng kể lại với hàng xóm rằng con mình đã biết nói. Hàng xóm cũng lấy làm kinh ngạc, tức tốc mời sứ giả tới. Sứ giả hỏi: “Mày là đứa trẻ mới biết nói, mời ta đến làm gì?”. Đứa trẻ nhỏm dậy bảo sứ giả rằng: “Mau về tâu với vua rèn một ngựa sắt cao mười tám thước, một thanh kiếm sắt dài bảy thước và một nón sắt. Ta cưỡi ngựa đội nón ra đánh, giặc tất phải kinh sợ bại trại, vua phải lo gì nữa”. Sứ giả vội về tâu với vua. Vua mừng nói rằng: “Ta không lo nữa”. Quần thần tâu: “Một người thì làm sao mà đánh bại được giặc”. Vua nói: “Lời nói của Long Quân ngày trước không phải là ngoa, các quan chớ nghi ngờ gì nữa”, rồi ra lệnh cân năm mươi cân sắt đúc thành ngựa, nón”.
Sứ giả tới gặp, người mẹ sợ hãi nói con rằng tai họa đã đến. Người con cả cười bảo rằng: “Mẹ hãy chuẩn bị cơm, rượu cho con ăn, việc đánh giặc mẹ chớ có lo”. Người con lớn lên rất nhanh, ăn uống tốn nhiều, người mẹ cung cấp không đủ. Hàng xóm sửa soạn trâu bò, bánh quả rất nhiều mà người con ăn vẫn không no bụng. Vải vóc rất nhiều mà mặc vẫn không kín thân, phải đi lấy lau lách buộc thêm vào cho kín người. Kíp đến lúc quân nhà Ân tới chân núi Trâu (Trâu Sơn) người con mới duỗi chân đứng dậy, cao hơn mười trượng, ngửa mũi hắt hơi liền hơn mười tiếng, rút kiếm thét lớn: “Ta là tướng nhà trời đây” rồi vung kiếm, đội nón cưỡi ngựa, ngựa chồm lên hí dài mà chạy như bay, quan quân theo sau, tiến sát đồn giặc, đánh nhau ở dưới núi Trâu, huyện Vũ Ninh Quân giặc đại bại, chém giết lẫn nhau. Vua nhà Ân bị giết ở núi Trâu, quân lính còn lại đều bái lạy, xưng gọi “Tướng nhà trời” rồi cùng hàng phục. Đi đến đất Sóc Sơn, thôn An Việt, Tướng nhà trời cởi áo, cưỡi ngựa bay lên trời, còn để vết tích ở hòn đá trên núi. Vua Hùng Vương nhớ công ơn đó mới tôn là Phù Đổng Thiên Vương, lập miếu thờ ở nhà cũ trong làng, lại ban cho một ngàn mẫu ruộng, sớm hôm hương khói. Nhà Ân, qua hơn 27 đời vua, 644 năm không dám đem quân quấy nhiễu. Bốn phương nghe tiếng thảy đều đến thần phục vua Hùng. Sau vua Lý Thái Tổ phong làm Xung Thiên Thần Vương, lập miếu thờ ở làng Phù Đổng cạnh chùa Kiến Sơ, lại tạc tượng ở núi Vệ Linh, xuân thu hai mùa tế lễ” [Bản dịch của dịch giả Nguyễn Hữu Vinh]
– Theo như truyện Bài ký sự tích Sóc thiên vương trong Việt điện u linh của Nguyễn Văn Hiền thì có tới 2 sự tích liên quan tới ngài Sóc thiên vương, nội dung của 2 sự tích đều được Nguyễn Văn Hiền ghi chép cẩn thận. Sự tích thứ nhất liên quan tới ngài Khuông Việt ở núi Vệ Linh, sự tích thứ hai liên quan tới ngài thánh Gióng đánh giặc. Rồi với mỗi sự tích lại có rất nhiều dị truyện liên quan, như đối với sự tích thứ hai thì truyện Phù Đổng thiên vương trong Lĩnh Nam chích quái là một dị bản phổ biến có liên quan. Còn với sự tích thứ nhất thì truyện Xung thiên dũng liệt chiêu ứng uy tín đại vương trong Việt điện u linh là một dị bản có liên quan. Tuy truyện Bài ký sự tích Sóc thiên vương nhắc đến sư Khuông Việt còn Xung thiên dũng liệt chiêu ứng uy tín đại vương nhắc tới sư Đa Bảo, song qua Thiền uyển tập anh chúng ta biết rằng 2 vị thiền sư này có mối quan hệ thầy trò.
– Chúng ta thấy rằng Việt điện u linh đã dẫn 1 tài liệu có tên là Báo Cực truyện cho Xung thiên dũng liệt chiêu ứng uy tín đại vương [Xung Thiên đại vương] nhưng câu hỏi là: những phần nào trong Xung Thiên đại vương thuộc về Báo Cực truyện, phần nào do Lý Tế Xuyên thu thập ? Phần Tiếm bình của Cao Huy Diệu có đưa ra nghi vấn: rõ ràng là việc của Thiên vương mà sao ở đây lại chép việc thần Thổ Địa và đây cũng chính là cơ sở giúp chúng ta xác định giới hạn. Tôi cho rằng Báo Cực truyện chỉ chép đến đoạn “sư lấy làm lạ, mới lại thiết đàn làm chay, cúng dùng toàn đồ chay cả”. Còn từ đoạn đó trở về sau là do Lý Tế Xuyên lấy từ các tài liệu khác.
– Trong phần chú thích của tác giả Lê Mạnh Thát đối với Thiền uyển tập anh có nhận định rằng: thiền sư Chí Thành nghi là thiền sư Cảm Thành, thiền sư vốn người Tiên Du, họ Thị, được thiền sư Vô Ngôn Thông thu nhận đặt tên là Cảm Thành, sư ở chùa Kiến Sơ, làng Phù Đổng, Tiên Du. Tác giả Lê Mạnh Thát cho biết thêm: truyện Xung thiên chiêu ứng thần vương trong Lĩnh Nam chích quái cũng có nội dung tương tự như truyện Xung Thiên đại vương trong Việt điện u linh nhưng truyện trong Lĩnh Nam chích quái được rút ra từ Cổ pháp ký và Kỷ Đức ký. Như thế, rõ là truyện thần Phù Đổng đã xuất hiện ở nhiều tài liệu.
An Nam chí lược chép: “Xung Thiên miếu tại làng Phù Đổng, hồi xưa trong nước rồi loạn, chợt thấy một người có uy có đức, dân đều về theo, người ấy bèn cầm quân dẹp loạn, rồi bay lên trời đi mất, hiệu là Xung Thiên vương, dân lập đền miếu để thờ”.
Toàn thư chép: “Sử thần Ngô Sĩ Liên nói: Tục truyền rằng Lý [Thái] Tổ khi mới được thiên hạ, xa giá về Cổ Pháp ngự chơi chùa ở hương Phù Đổng, có thần nhân đề thơ ở cột chùa rằng: “Nhất bất công đức thủy, Tuỳ duyên hoa thế gian. Quang quang trùng chiếu chúc. Một ảnh nhật đăng san”. [Một bát nước công đức [của Phật], theo duyên sinh hoá ở thế gian. Sáng rực hai lần đuốc rọi, mặt trời gác núi là hết bóng]. Sư chùa là Vạn Hạnh đem bài thơ ấy dâng lên. Lý Thái Tổ xem xong rồi nói: “Việc của thần nhân thì không thể hiểu được”. Người đời truyền tụng, không ai biết thơ ấy nói thế nào. Đến khi nhà Lý mất, mới cho bài thơ ấy là nghiệm. Vì từ đời Huệ Tông trở lên đến Thái Tổ là tám đời mà Huệ Tông tên là Sảm, tức là mặt trời gác núi, hết bóng. Thế thì nhà Lý được nước là tự trời, mất nước cũng là tự trời vậy”.
– Như vậy là vào thời điểm Lê Tắc sống, Xung Thiên vương đã xuất hiện, nhưng nếu đem so sánh ghi chép của An Nam chí lược với Việt điện u linh thì sẽ nhận ra ngay sự khác biệt, thật vậy nếu như An Nam chí lược gắn sự ra đời của Xung Thiên vương với 1 vị tướng dẹp loạn thì Việt điện u linh lại gắn sự ra đời của Xung Thiên đại vương với câu chuyện của Lý Công Uẩn với thiền sư Đa Bảo.
– Liên quan tới bài thơ mất ngôi nhà Lý, thì dễ dàng nhận ra sự khác biệt về nhân vật trong các tài liệu, thật vậy theo mạch truyện trong Việt điện u linh thì vị thiền sư dâng bài thơ cho Lý Công Uẩn là Đa Bảo, nhưng trong Toàn thư thì vị thiền sư dâng bài thơ là Vạn Hạnh. Trong phần chú thích sách Thiền uyển tập anh tác giả Lê Mạnh Thát viết: “chúng [ý nói bài thơ mất ngôi] thực tế có thứ chất thơ phong thủy và sấm truyền của những bài thơ hiện còn lưu truyền mệnh danh là của Vạn Hạnh”.
Tiểu kết: Thoạt xem thì nhận ra truyện Xung Thiên đại vương trong Việt điện u linh khá chặt chẽ, song chúng ta vẫn có thể tìm kiếm được những dị bản của từng đoạn truyện trong những tài liệu khác. Như việc sắc phong Xung Thiên vương trong An Nam chí lược hay bài thơ mất ngôi trong Toàn thư. Tôi cho rằng truyện Xung Thiên đại vương là 1 câu truyện được kiến tạo từ 3 tiểu chuyện, đó là truyện thiền sư Đa Bảo sửa sang lại miếu của thiền sư Cảm Thánh, truyện miếu được sắc phong Xung Thiên và truyện bài thơ mất ngôi.
– Liên quan tới truyền thuyết thánh Gióng thì có rất nhiều bài nghiên cứu, lúc đầu tôi cũng muốn tìm hiểu về vị thần này của người Việt, nhưng bây giờ tôi nhận ra, việc tìm hiểu về vị thần này là quá sức vì liên quan tới vị tứ bất tử này có rất nhiều các dị bản, các dị bản liên tục biến đổi trong 1 khoảng thời gian rất dài, lại thêm bản thân các dị bản không bị cô lập mà hoàn toàn mở đối với các câu chuyện khác như truyện về thiền sư Khuông Việt và giấc mơ Tỳ Sa Môn thiên vương (rộng hơn là phật giáo) hay truyện về thiền sư Đa Bảo, Vạn Hạnh trong Thiền uyển tập anh. Về mặt logic thì ứng với mỗi dị bản là một tác giả hoặc nhóm tác giả, nên mỗi dị bản chứa đựng trong nó nhưng phần hiện thực đời sống, do đó nếu chúng ta không thể khảo sát hết được các dị bản thì chúng ta chỉ như người thầy bói xem voi.
– Trước khi trở lại với Nguyễn Nộn chúng ta cần cố gắng định hình sự tiến triển của Xung Thiên đại vương trước khi Toàn thư được khắc in. Qua Việt điện u linh, Lĩnh Nam chích quái và Toàn thư chúng ta biết rằng: xuất hiện 2 sự tích phố biến liên quan tới Xung Thiên vương, sự tích theo tôi là hình thành sau liên quan tới việc thần Phù Đổng đánh giắc ngoại xâm, sự tích theo tôi là hình thành trước liên quan tới việc Lý Thái Tổ thăm chùa Phù Đổng. Hình mẫu chuyển tiếp giữa 2 sự tích này được An Nam chí lược xác nhận qua ghi chép về Xung thiên miếu và vị tướng dẹp loạn.
– An Nam chí lược còn cung cấp cho chúng ta 1 thông tin rất quan trọng về Nguyễn Nộn, đó là việc Nộn tự xưng hiệu là Kim Thiên đại vương. Trong Việt điện u linh, Lĩnh Nam chích quái, Anh Nam chí lược thì Xung Thiên có nghĩa là “bay lên trời”, làm chúng ta liên tưởng tới nguồn gốc từ trời. Nếu mục Cổ tích trong An Nam chí lược, vị tướng dẹp loạn là Thiên vương thì mục Gia thế, Lê Tắc cho biết Nguyễn Nộn tự xưng là Kim Thiên vương. Có mối liên hệ nào không ?
(3) Đại Nam nhất thống chí chép: “Tỉnh Bắc Ninh. Đền Đổng Xung Thiên thần vương ở xã Phù Đổng huyện Tiên Du (…) Đền thần Hoài Đạo ở xã Phù Dực huyện Tiên Du, thần họ Nguyễn tên là Nộn, người xã này trước làm cư sĩ chùa Phù Đổng, được thần kiếm, sau làm quan dưới triều Lý Huệ Tông, đem quân đi dẹp Man Quảng Oai, đến lúc nhà Lý mất, không chịu thuần phục nhà Trần tự xưng là Hoài Đạo vương, chiếm cứ vùng Bắc Giang, để chống nhau với nhà Trần, sau khi mất dân địa phương lập đền thờ” [Bản dịch của Viện sử học]
Đình và đền Hà Nội của tác giả Nguyễn Thế Long viết: “Đình Công Đình [thuộc xã Đình Xuyên, huyện Gia Lâm, Hà Nội] thờ thành hoàng là Đức Tả Phù. Theo truyền thuyết, Tả Phù quê ở Phù Ninh, nhà nghèo có tài chăn ngựa cho vua. Lúc ấy có giặc Bầu nổi lên ở miền ngược, ông xin đi đánh giặc, được chọn làm thám tử. Ông tỏ ra gan dạ và mưu trí, nắm được nhiều thông tin của giặc. Ông giả ăn mặc rách rưới đến trại giặc, lừa cho giặc uống rượu say, rồi ra hiệu cho quân lính nhà vua tiến đánh. Giặc thua to, do có công, ông được phong Tân Nhật Nhất Phong. Ông xin vua cho 3 ngôi nhà của giặc Bầu, dỡ đem về xây dựng đình thờ thần có công phù giúp. Đến khi ông mất được dân làng thờ ở đình là thành hoàng làng. Dòng chữ khắc niên đại 1668 và dấu ấn phong cách kiến trúc thời Lê là minh chứng thời khởi dựng của đình Công Đình (…) Đình Công Đình còn giữ được sắc phong có niên hiệu sớm nhất là Dương Đức 3 [1673] Miếu Công Đình thờ Nguyễn Nộn (…) Miếu có sắc phong sớm nhất niên hiệu Dương Đức 3”.
– Thời điểm cụ thể mà ngài Nguyễn Nộn, được người dân vùng Gia Lâm, Hà Nội thờ, mà chúng ta có thể xác định được, là vào thời nhà Lê. Trên thực tế, tôi cho rằng: còn sớm hơn rất nhiều. Nếu chúng ta đặt Nguyễn Nộn vào trong truyện Xung Thiên vương của làng Phù Đổng thì sẽ nhận ra nhưng mối liên hệ. Nộn người Phù Minh, Tiên Du trong Cương mục, là cư sĩ chùa Phù Đổng trong Toàn thư và chiếm giữ Bắc Giang trong Việt sử lược, rồi tự xưng hiệu là Kim Thiên vương trong An Nam chí lược. Như trên đã bàn, do chúng ta không biết chính xác tiến trình diễn tiến của Xung Thiên thần vương nên không thể đưa ra mối quan hệ chính xác giữa thần Xung Thiên với Nguyễn Nộn, nhưng chúng ta có thể biết chắc chắn rằng: đã có sự xâm nhập giao thoa giữa thông tin về Xung Thiên thân vương với Bắc Giang vương.
– Sự xâm nhập diễn ra từ từ trong thời gian dài, An Nam chí lược ghi nhận sự xâm nhập thông tin về cuộc nội chiến và vị tướng dẹp loạn (một ánh xạ của Nguyễn Nộn). Vào thời điểm của Lê Tắc sống, dân gian đã lấy 1 phần cuộc đời thực của Nguyễn Nộn (phần Nộn chiếm giữ Bắc Giang thời nội loạn) để kiến tạo Cổ tích Xung thiên vương, nhưng 1 phần cuộc đời thực khác của Nguyễn Nộn vẫn còn (phần quê quán) và được chép trong Gia thế của An Nam chí lược. Sự xâm nhập thông tin khá nhẹ nhàng mà bản thân tác giả Lê Tắc cũng không nhận ra. Sự xâm nhập này diễn ra sau khi Nguyễn Nộn chết và trước khi Lê Tắc chép An Nam chí lược. Về góc độ văn hóa thì trong khoảng thời gian từ khi Nộn chết đến khi Lê Tắc chạy sang phương bắc, không phải chỉ có duy nhất trường hợp xâm nhập thông tin mà chúng ta đang bàn, còn có rất nhiều các trường hợp xâm nhập thông tin khác.
– Sự xâm nhập mà chúng ta đang bàn có 2 chiều kích, chiều thứ nhất gọi là truyền thuyết hóa Nguyễn Nộn, tức là đem những thông tin liên quan tới Xung Thiên vương phụ họa thêm cho tiểu sử của Nguyễn Nộn, chiếu thứ hai gọi là lịch sử hóa truyền thuyết, tức là đem những thông tin về cuộc đời thực của Nguyễn Nộn vào truyện Xung Thiên thần vương. Cho đến khi Toàn thư được soạn thì cuộc đời của Nguyễn Nộn đã được truyền thuyết hóa hoàn toàn và với việc ghi chép lại những thông tin về Nguyễn Nộn [sau khi bị truyền thuyết hóa] Toàn thư đã chính thức bóc cái tem truyền thuyết để dán lại cái tem lịch sử cho những thông tin về Nguyễn Nộn. Nói cách khác, những thông tin về Nguyễn Nộn trong Toàn thư đều có nguồn gốc dân gian!
– Chẳng hạn như thông tin đầu tiên về Nguyễn Nộn, rằng ngài ấy là 1 vị cư sĩ ở chùa Phù Đổng, vì bắt được vàng mà không dâng, rõ ràng là mang đầy tính chất truyền thuyết. Hay như thông tin cuối trong Toàn thư là người thuộc hạ tên Phan Ma Lôi ngầm cưỡi ngựa, đi đâu không rõ. Thông tin này gợi nhớ tới vị Đức Tả Phù được thờ làm thành hoàng làng tại đình Công Đình, mà theo truyền thuyết vốn là người có tài chăn ngựa như sách Đình và đền Hà Nội ghi lại. Đồng thời cũng gợi nhớ tới vị đại tướng của Nguyễn Nộn là Nguyễn Doanh, người mà sau khi Nộn chết đã bỏ trốn vào rừng, sau 5 ngày thì ra hàng Trần Tự Khánh và dâng con danh mã. Và cuối cùng là con ngựa sắt được nhắc tới trong truyền thuyết thánh Gióng mà Lĩnh Nam chích quái ghi chép. Cũng rất trùng hợp khi mà Việt sử lược và An Nam chí lược đều chép tới 1 nhân vật tên là Ma Lôi như Toàn thư nhưng lại mang họ Đoàn.
Bài Danh tướng Nguyễn Nộn thời Lý – Trần của tác giả Trương Sĩ Hùng viết: “Theo Bắc Ninh tỉnh thần tích thì Nguyễn Nộn làm quan thời Lý Huệ Tông (1211 – 1224) có nhiều công dức trong việc giữ gìn kỷ cương phép nước, nên đã được phong chức Tả đô đốc, đảm nhận việc quốc gia coi giữ đạo Bắc Giang (…) So với Bắc Ninh tỉnh thần tích thì năm mất của Nguyễn Nộn đúng là 1229, nhưng có thêm chi tiết: “sau (1228) ông bãi binh về ở chùa Sùng Khánh rồi mất. Dân xã Phù Đổng là quê ông lập miếu thờ, tôn làm thành hoàng”. Đình làng thờ Nguyễn Nộn cùng với Phù Đổng thiên vương. Ở Thần tích tỉnh Bắc Ninh, nhân dân nói đến hai vị thành hoàng làng Công Đình, cho biết: “Nguyễn Nộn quê ở làng Nành – nay thuộc xã Ninh Hiệp, huyện Gia Lâm”. Căn cứ vào Bắc Ninh toàn tỉnh dư địa chí và Bắc Ninh tự miếu bi văn, nhóm tác giả Di tích lịch sử văn hóa Việt Nam viết: “Đền thờ Hoài đạo vương Nguyễn Nộn tại quê nhà ở xã Phù Dực, huyện Tiên Du – nay thuộc huyện Gia Lâm, Hà Nội”. Theo chúng tôi, có lẽ Nguyễn Nộn còn được nhiều làng ở bờ Bắc sông hồng tôn làm thành hoàng, bởi ông là một tướng tài, giúp mấy đời vua Lý trấn giữ một miền đất cổ yên bình hơn 10 năm dòng dã. Làm quan sinh thời có uy tín, được dân gian truyền lời ca tụng, nể phục; tất nhiên khi qua đời dân tự lập đền thờ”.
– Tôi không nghĩ chỉ có Bắc Giang vương Nguyễn Nộn được Toàn thư thu thập thông tin từ dân gian để chép lại, mà ngờ rằng Đoàn Thượng cũng là trường hợp tương tự. Xem Việt điện u linh truyện Anh Liệt chính khí Đoàn tướng quân do đạo nhân quán Tam Thanh tùng bổ và thần phả Đông Hải đại vương soạn năm Vĩnh Hựu năm thứ hai [1737] rất dễ dàng nhận ra sự tương đồng về thông tin liên quan tới Đoàn Thượng trong Đại Việt sử ký toàn thư.
Bài Đọc kỷ nhà Trần qua sách Đại Việt sử ký toàn thư – Đôi điều nghi vấn của tác giả Đặng Hùng viết: “Đoàn Thượng, Nguyễn Nộn đã chết trong thời điểm nào ? Có lẽ Đại Việt sử ký toàn thư đã nhầm, vì ta thấy ở ngay trang 428 đã chép: “Nhâm Ngọ năm thứ 12 (1222) mùa xuân tháng hai, chia trong nước làm 24 lộ, lộ chia cho công chúa ở, lấy các hành nô thuộc lệ và quân nhân bản lộ chia nhau làm giúp”. Chúng ta còn có thể đặt câu hỏi: Nếu đất nước còn chiến tranh, còn nạn cát cứ thì làm sao triều đình có thể định lại phủ lộ được, đấy là chưa kể tới việc chia đất, chia lộ cho các công chúa ở. Rõ ràng Nguyễn Nộn và Đoàn Thượng đã chết, đất nước hết nạn cát cứ, non sông thống nhất thì triều đình (do Trần Tự Khánh và Thái úy phụ chính) mới có thể định lại phủ lộ vào năm 1222 được. Thực tế, các vương triều ở Việt Nam chỉ chia lại phủ lộ sau khi đất nước đã thống nhất về một mối (thời Lý, thời Trần, thời Lê và cả thời Nguyễn đều như vậy). Có một vấn đề đáng lưu ý: Ngay khi còn sống, Trần Tự Khánh cũng chưa dám đoạt ngôi nhà Lý. Có thể do thời cơ chưa đến, hoặc còn có Nguyễn Nộn, Đoàn Thượng và tôn thất nhà Lý cùng vây cánh của Đàm Thái hậu và Đàm Dĩ Mông … Chính vì vậy Trần Tự Khánh chỉ lo củng cố quyền lực, đưa con cháu, anh em và người thân của mình vào nắm giữ các chức vụ quan trọng trong triều. Do đó, không thể có lý nếu nói Trần Thủ Độ đoạt ngôi nhà Lý (1226) bằng việc Lý Chiêu Hoàng nhường ngôi cho chồng, trong khi Đoàn Thượng và Nguyễn Nộn còn sống ! Chắc chắn, vây cánh của Đàm Thái hậu và tôn thất nhà Lý chưa phải là đối thủ đáng sợ của Trần Thủ Độ. Nhưng với lực lượng chống đối của Đoàn Thượng, Nguyễn Nộn thì hẳn Trần Thủ Độ phải đề phòng. Do đó, rất nhiều khả năng sách Việt sử lược đã viết đúng về thời gian tan rã của Đoàn Thượng và Nguyễn Nộn. Có như vậy mới dẫn tới việc Trần Tự Khánh và triều đình định lại phủ lộ trong nước năm 1222. Sau này, Trần Thủ Độ đạo diễn việc nhường ngôi rất nhẹ nhàng từ Lý Chiêu Hoàng sang cho Trần Cảnh mà không gặp phải sự phản ứng cứng rắn nào của các thế lực chống đối” [Xin xem thêm bài viết của tác giả Đặng Hùng]
(4) Mục Đình Ninh Giang trên Web Cổng thông tin điện tử huyện Gia Lâm – Thành phố Hà Nội viết: “Đình Ninh Giang là nơi thờ tự và tưởng niệm thần Nguyễn Nộn (…) Sách Đại Việt Sử ký toàn thư, Việt sử lược – tác phẩm khuyết danh đời nhà Trần, Thần tích đình Công Đình, Ninh Giang đã nói khá nhiều đến nhân vật Nguyễn Nộn: “Nguyễn Nộn người làng Phù Đổng (tổng Phù Ninh) nổi dậy vào cuối thời nhà Lý. Khi nhà Lý suy thoái, ông trở lại quê nhà làm nghề bốc thuốc, chữa bệnh cho dân, mở trường dạy học, khai thông dân trí, xây dựng phòng tuyến ở Ninh Giang, Công Đình, phòng khi nhà Trần đến xâm phạm. Khi nhà Trần được kiến lập (1226) biết Nộn là người yêu nước có tài, vua Trần đã phong tước cho Nguyễn Nộn là Hoài Đạo Vương (Hoài Đạo Hiếu Vũ Vương) gả công chúa Nguyễn Thiều và giao nhiệm vụ cầm quân đi dẹp một số thủ lĩnh cát cứ ở địa phương, thống nhất đất nước. Sau một thời gian (1229) ông ốm nặng và mất tại quê nhà, nhân dân quanh vùng, những nơi ông đóng quân, mở trường dạy học, chữa bệnh cho dân đã lập đền thờ để tưởng nhớ công lao của ông”. Việc phụng thờ thần Nguyễn Nộn làm thành hoàng là thể hiện truyền thống uống nước nhớ nguồn. Cách ứng xử đẹp đẽ để đến với quá khứ, những giá trị tinh thần ấy cần được bảo tồn và phát huy cho các thế hệ kế tiếp sau. Ngoài việc thờ thần Nguyễn Nộn làm thành hoàng ra, đình hiện còn thờ thần Lý Nhũ Thái Lão dược sư thần linh. Trước kia thần được thờ ở tại Điếm Kiều (xóm 6) sau nhân dân rước ngai, bài vị về thờ tại đây. Hàng năm, dân làng vẫn duy trì lễ hội vào ngày mùng 8, mùng 9 tháng Giêng âm lịch”.
– Nếu như Toàn thư ra đời muộn hơn Việt sử lược, lại thu lượm những thông tin về Nguyễn Nộn để chép thì thông tin có xác tín ? Và nếu Việt sử lược chép đúng, Nguyễn Nộn chết vào năm 1219, vậy việc Trần Thủ Độ đem công chúa Ngoạn Thiềm gả cho Nguyễn Nộn phải giải thích sao ? Thật đáng ngạc nhiên khi mà không có bất cứ thông tin nào về Ngoạn Thiềm công chúa, cả trong chính sử và truyền thuyết ? Xem Việt sử lược chúng ta thấy vào tháng 1/1213 sau khi Vương Thường, Ngô Nãi, Phan Thế giải cứu thành công Huệ Tông và thái hậu, Tự Khánh lúc này đóng ở bến Đại Thông đã tức giận đem binh tấn công kinh thành, nhưng không lợi nên đã “đốt cầu Ngoạn Thiềm”.
– Chúng ta biết rằng: họ Trần có gả vợ cho Nguyễn Nộn, nhưng theo Việt sử lược thì đó là người con của bà dì và đó là vào tháng 9/1213. Rất có thể người em họ con bà dì của Trần Tự Khánh trong Việt sử lược chính là công chúa Ngoạn Thiềm trong Toàn thư. Chúng ta không biết sự xác tín về thông tin liên quan tới công chúa Ngoạn Thiềm trong Toàn thư đến đâu do không có tài liệu đối chứng, nhưng trong bài giới thiệu về đình Ninh Giang có nhắc tới vị công chúa với vai trò của Ngoạn Thiềm là Nguyễn Thiều.
– Tôi đặt giả thuyết: có thể vì lý do kiêng húy nhà Trần mà vốn vị công chúa được gả cho Nguyễn Nộn có họ tên là Lý Thiều nên đổi thành Nguyễn Thiều, vị công chúa này sống trong cung có liên quan tới địa danh Ngoạn Thiềm nên còn được gọi là công chúa Ngoạn Thiềm. Mẹ của nàng công chúa này theo Việt sử lược là người họ Tô, vốn là chị em gái của mẹ Trần Tự Khánh, cũng đồng thời là chị em gái của Tô Trung Từ, mối quan hệ này góp phần giải thích vì sao Tô Trung Từ sau khi nhận sắc phong của Huệ Tông lại được tha tội (trong khi Đàm Dĩ Mông lại bị Đỗ Anh Doãn kể tội, mà Dĩ Mông cũng phải đành chịu) hơn thế nữa lại nhanh chóng giữ những chức vụ quan trọng trong triều đình trước và sau khi Cao Tông mất. Vào thời điểm năm 1213, khi được gả cho Nguyễn Nộn, em con bà dì của Trần Tự Khánh cũng phải ước khoảng 15 tuổi, tức là ước sinh vào khoảng năm 1198. Lúc này Trần Thủ Độ (1194) khoảng 4 tuổi, Trần Thừa (1184) khoảng 14 tuổi, Huệ Tông (1194) khoảng 4 tuổi. Việt sử lược cho biết vào tháng 12/1292 cung Nghênh Thiềm bị cháy, đến tháng 3/1197 vua ngự ra cửa biển Long Thủy, xây cung Nghênh Thiềm và hành cung hơn một trăm nơi. Toàn thư có nhắc tới Long Thủy như trong mục năm 1119 và theo chú thích của người dịch thì nay là Thác Bờ, gần thị xã Hòa Bình thuộc tỉnh Hòa Bình. Tôi cho rằng: em con bà dì của Tự Khánh được đem gả cho Nguyễn Nộn là công chúa của Cao Tông. Nàng vốn là con gái của Tô phu nhân, vị Tô phu nhân được chia – ban hưởng đất Thần Khê, Cả Lũ [nay thuộc Thái Bình] làm ấp thang mộc, sau bà để cho nàng thụ hưởng, khi được gả cho Nguyễn Nộn, Trần Tự Khánh đã lấy đất thang mộc ấy tặng lại cho Bắc Giang vương. Tôi hiện chưa tìm được địa danh Long Thủy nào có liên quan tới vùng Thần Khê, Cả Lũ.

Bàn về người thân của Trần Quốc Tuấn- Bài 1

(1) Toàn thư chép: “Tân Hợi [1251] Gả trưởng công chúa Thiên Thành cho Trung Thành vương, con trai Yên Sinh vương là Quốc Tuấn cướp lấy. Công chúa về với Quốc Tuấn (…) Trước đó, vua cho công chúa Thiên Thành đến ở trong dinh Nhân Đạo vương [Nhân Đạo vương là cha của Trung Thành vương] Quốc Tuấn muốn lấy công chúa Thiên Thành, nhưng không làm thế nào được, mới nhân ban đêm lẻn vào chỗ ở của công chúa mà thông dâm với nàng. Công chúa Thụy Bà [chị ruột của Thái Tông, cô của Quốc Tuấn, nuôi Quốc Tuấn làm con] Liền đến gõ cửa điện cáo cấp. Người coi cửa vội vào tâu”.
Toàn thư chép: “Đinh Dậu [1237] Lấy đất Yên Phụ, Yên Dưỡng, Yên Sinh, Yên Hưng, Yên Bang cho Liễu làm ấp thang mộc, nhân đất được phong mà Liễu có tên hiệu là Yên Sinh vương”.
Tuệ Trung thượng sĩ ngữ lục của Trần Nhân Tông có bản dịch giải của tác giả Lý Việt Dũng viết: “Thượng sĩ là con đầu lòng của Khâm Minh Từ Thiện đại vương và là anh cả của hoàng thái hậu Nguyên Thánh Thiên Cảm. Khi đại vương mất, hoàng đế Thái Tông cảm nghĩa, phong cho thượng sĩ tước Hưng Ninh vương [Thượng Sĩ] thọ 62 tuổi. Bấy giờ nhằm đời Trùng Hưng thứ 7, năm Tân Mão, tháng 4 ngày mồng 1”.
Toàn thư chép: “Ất Mão [1315] Sử thần Ngô Sĩ Liên nói: Vua vốn nhân hậu với họ hàng, nhất là đối với bậc bề trên mà hiển quý lại càng tôn kính. Kẻ thần hễ ai cùng tên đều phải đổi cả, như Độ đổi thành Sư Mạnh vì là cùng tên với thượng phụ, Tung đổi thành Thúc Cao vì là cùng tên với Hưng Ninh vương [con trưởng của An Sinh vương] Lại các tên của chú bác, cô cậu khi nói đến vẫn kiêng cả”.
– Như vậy Hưng Đạo vương Trần Quốc Tuấn là con trai của An Sinh vương Trần Liễu, cháu nội của Thái Tổ Trần Thừa, con nuôi cũng là cháu ruột gọi công chúa Thụy Bà bằng cô, anh trai cả là Tuệ Trung thượng sĩ, có vợ là trưởng công chúa Thiên Thành. Công chúa Thiên Thành là ai ?
Trong bài Các công chúa của vua Trần Thái Tông của tác giả Bùi Văn Tam đăng trên Tạp chí xưa và nay viết: “Thôn Tiền xã An Lạc huyện Thiên Bản [Tam Thanh, Vụ Bản] có đền thờ Trần Quốc Tuấn (…) theo lời cụ từ Nguyễn Văn Mỹ thì trước đây đền có lưu giữ (…) bộ Trần triều hiển Thánh chính tập biên gồm 6 quyển, mỗi quyển khoảng 200 trang (…) Quyển này không ghi niên đại, không có tên tác giả, nhưng có thể biết sách viết về đời Nguyễn (hoặc đến đời Nguyễn thì bổ sung thêm) vì có nói đến việc vua Minh Mạng phong sắc cho Phạm Ngũ Lão (…) Trong quyển 3 này có chép lại Ngọc phả hệ bảo tích nội dung ghi sự phát tích của vương triều Trần và ghi chép đầy đủ hệ phả của Trần Hưng Đạo và của vua Trần Thái Tông (…) Theo Ngọc phả hệ bảo tích của vương triều Trần, thì vua Trần Thái Tông có 5 công chúa: Đó là Trưởng công chúa Thái Đường do Hoàng hậu Lý Thuận Thiên sinh ra và 4 công chúa Thiều Dương, Thụy Bảo, An Tư, Hoa Dung do ba bà phi khác sinh ra. Qua đó, Thiên Thành công chúa, vợ của Trần Quốc Tuấn, không phải là công chúa con của Trần Cảnh, càng không phải là Trưởng công chúa của Trần Cảnh (Thái Tông) như một số bài viết gần đây hư tạo ra (…) Về công chúa Thái Đường, Ngọc phả hệ bảo tích ghi rõ là công chúa trưởng của vua Trần Thái Tông. Trưởng công chúa Thái Đường cùng mẹ là Thuận Thiên Hoàng hậu với hai anh là vua Trần Thánh Tông (sinh năm 1240) và Chiêu Minh Vương Trần Quang Khải (sinh năm 1241). Sau khi sinh tiếp Thái Đường trưởng công chúa ít lâu thì Hoàng hậu Thuận Thiên qua đời (năm 1248) thọ 32 tuổi (…) Lớn lên, vua Thái Tông gả Trưởng công chúa cho hầu tước Vũ Tỉnh ở Lục Ngạn xứ Kinh Bắc (nay thuộc Bắc Giang). Công chúa sinh một con trai là Vũ Thành. Hầu tước Vũ Tỉnh qua đời, Trưởng công chúa Thái Đường một mình nuôi con khôn lớn, ăn học thành tài, tập ấm cha cai quản miền Lục Ngạn (…) Nhà vua đã phong Vũ Thành là Trung dũng hầu Thượng tướng quân. Ông hy sinh năm 1288 trong trận chiến đấu ngăn chặn giặc Nguyên xâm lược nước ta lần thứ ba tại Lục Ngạn. Khi chồng và con không còn nữa, Trưởng công chúa Thái Đường về trông coi thái ấp cho anh là Thái úy Trần Quang Khải (…) Khi bà mắc lỗi, vua thu hết ruộng đất, bà xuống tu ở chùa Viên Quang, làng Hộ Xá [Nghĩa Xá phía nam sông Ninh Cơ] Chùa này có tấm bia đời Lý (1122) nhưng mặt sau mới khắc thêm đời Lê (Quang Hưng, Hoằng Định đời Lê) ghi tiếp tục việc công đức vào đền. Đặc biệt, mặt bia này có ghi: “Ruộng triều Trần một khoảnh, các cháu của Thái (Đường) trưởng công chúa là Vũ Khắc Cần, Vũ Khắc Trị cúng ruộng, ao, tha ma gồm 30 mẫu ở xã Đồng Kỹ huyện Tây Chân”. Điều này càng khẳng định chồng bà họ Vũ nên cháu (tôn điệt) của bà là người họ Vũ cúng ruộng vào chùa. Đền Miễn Hoàn thờ Quốc Mẫu Thái Đường trưởng công chúa, có tượng của bà và 4 nữ tì hầu bà, có sắc phong từ đời Lê Cảnh Hưng thứ 44 (1783). Thần vị của bà ghi: “Trần triều Thái Tông hoàng đế Thái Đường trưởng công chúa Quý mỹ Tiết hạnh Dung quang Đại Vương thần vị”. Công chúa Thụy Bảo là em cùng mẹ với công chúa Thiều Dương. Bà là vợ của Uy Văn Vương Trần Toại”.
Trong bài Thiên Thành Công chúa phu nhân Hưng Đạo Đại Vương là con ai đăng trên Tạp chí xưa và nay viết: “Trong cuốn Nhà Trần và con người thời Trần của Viện Sử học – Hội Khoa học lịch sử Việt Nam (Hà Nội, 2004) xuất bản, tôi lại thấy có sự nhận định tương tự trong bài “Trần Hưng Đạo” của tác giả Nguyễn Thành Long (…) viết: “Trần Quốc Tuấn là cháu gọi Trần Cảnh (…) bằng chú ruột. Năm 1251 lấy Thiên Thành Công chúa, trở thành con rể của Thái tổ Trần Thừa, em rể của vua Trần Thái Tông”. Người đọc không thấy tác giả Nguyễn Thành Long dẫn chứng những cứ liệu lịch sử! Trong khi chờ ý kiến của qúy vị và ý kiến của các nhà nghiên cứu, các nhà sử học đương đại, tôi xin được nêu những nhận thức của mình: Trưởng Công chúa Thiên Thành không phải là con Thượng hoàng Trần Thừa mà là con gái Thượng hoàng Trần Thái Tông và Trần Quốc Tuấn lấy em con ông chú ruột làm vợ (phu nhân) chứ không phải lấy cô ruột làm vợ (…) Cứ liệu thứ hai dẫn tới sự nhận định của tôi như đã nêu ở trên là: Tại trang 23 tập II bộ Đại Việt sử ký toàn thư ghi rõ: “Công chúa Thụy Bà (chị ruột của Thái Tông, cô của Quốc Tuấn) nuôi Quốc Tuấn làm con”. Như vậy Thụy Bà là chị của Trần Cảnh và em của Trần Liễu. Mà Thiên Thành – Trưởng Công chúa – nếu là con cụ Trần Thừa, thì còn là chị của Công chúa Thụy Bà và chị Hoàng đế Trần Cảnh. Lễ nào anh trai Quốc Tuấn ngoài 20 tuổi đầu làm con nuôi bà em lại đi lấy bà chị của mẹ nuôi làm vợ và lại là cô ruột của mình ? Cứ liệu thứ ba: Theo sách Trần Gia thế tộc ký sự (gia phả ghi chép các dòng họ Trần – bản chữ Hán, lưu giữ tại Viện Hán Nôm) có ghi: “Trần Thừa lấy Lê Thị sinh ra 3 người con trai. Con trưởng là Trần Liễu làm thái uý, được phong là An Sinh Vương. Con thứ là Trần Cảnh sau lấy Lý Chiêu Hoàng, được lập làm Trần Thái Tông. Con thứ 3 là Trần Nguyệt Cải (còn gọi là Trần Nhật Hiệu) làm thái uý. Và người con gái là Thụy Bà Công chúa có công nuôi cháu là Trần Quốc Tuấn làm con nuôi trong 8 năm”. Công chúa Thụy Bảo (Thụy Bà) con gái Thượng hoàng Trần Thừa; Chồng Công chúa là Uy Văn Vương Toại (tự Sầm Lâu) là người ham học, có kiến thức rộng, hay thơ, đã để lại cho đời “Sầm Lâu tập”. Không may ông bị chết sớm. Có lẽ vì sự mất mát đó mà Thụy Bà nuôi Trần Quốc Tuấn để khoả lấp nỗi trống vắng (…) Sử thần Ngô Sĩ Liên nói: “Con gái vua lấy kẻ bề dưới tất phải sai chư hầu cùng họ đứng ra làm chủ hôn, theo lễ phải thế. Thái Tông đem Thiên Thành Công chúa gả xuống cho Trung Thành Vương, nhưng Công chúa lại về với Hưng Đạo Vương”. Cụ Trần Thừa mặc dù được con trai thứ – vua Trần Thái Tông – tôn lên làm “Thượng hoàng” nhưng thực tế thì cụ chưa một ngày làm vua. Chỉ có 8 năm ở ngôi vị Thượng hoàng (từ tháng 10 năm Bính Tuất (1226) đến tháng giêng năm Giáp Ngọ (1234) thì mất. Bởi vậy mà câu nói “con gái vua” của Sử thần Ngô Sĩ Liên theo tôi chỉ Công chúa Thiên Thành con gái vua Trần Cảnh [dẫn lại từ Internet và nguồn không đề tên tác giả]
Trong bài Công chúa đời Trần của tác giả Nguyễn Thị Chân Quỳnh tại ghi chú số 5 viết: “Trưởng công chúa là chị em ruột của vua, con của Thượng hoàng, chứ không phải là công chúa lớn nhất”.
Cương mục chép: “Tân Hợi [1251] Lời chua: Thiên Thành là con gái Thượng hoàng. Quốc Tuấn là con An Sinh vương Liễu. Thụy Bà là chị Thiên Thành và là mẹ nuôi Quốc Tuấn”.
– Như vậy là có 2 giả thuyết về thân phụ của công chúa Thiên Thành, giả thuyết trước cho rằng Thiên Thành là con gái của Thái Tổ Trần Thừa, giả thuyết sau cho rằng Thiên Thành là con gái cả của Thái Tông Trần Cảnh. Sách Cương mục thì chép rõ rằng: Thiên Thành là con của Thượng Hoàng, mà năm 1251 nằm trong quãng thời gian trị vì của Thái Tông, nên thượng hoàng phải là Trần Thừa, do đó Thiên Thành là con gái của Thái Tổ. Nhưng rồi, Quốc sử quán triều Nguyễn dựa trên cơ sở nào để chép như vậy ? Theo Tân Đường thư thì chị em gái của hoàng đế là trưởng công chúa và quy chế này đã trở thành căn bản cho các triều đại nên rất có thể Quốc sử quán triều Nguyễn đã cứ vào đó để chép Thiên Thành là con gái của thượng hoàng. Nhưng quy chế ấy ra đời ở phương bắc còn vào thời Trần ở phương nam thì quy chế ấy có thực sự được tuân thủ 1 cách nghiêm ngặt hay không ?
 Toàn thư chép: “Đinh Sửu [1277] Hôm thượng hoàng băng, công chúa Thiều Dương [con gái thứ của thượng hoàng tên là Thúy] đang ở cữ (…) thương khóc, kêu gào, nhắm mắt nghiền rồi mất (…) Bấy giờ Uy Văn vương Toại lấy con gái của thượng hoàng là công chúa Thụy Bảo. Toại ham học, hay thơ (…) tự hiệu là Sầm Lâu”.
Cương mục chép: “Đinh Mão [1267] Lời cẩn án: Thể lệ phong ấm triều nhà Trần, theo sử cũ chép lại, phần nhiều không hiểu rõ được, như con thứ của vua phong là thượng vị hầu, mà con trưởng của các tước vương thì phong vương, con thứ cũng phong là thượng vị hầu, như thế đã không theo thế thứ. Đến như việc tập ấm, mà cháu 3 đời của vương hầu, công chúa cũng phong đến quận vương, thì thật là lộn xộn”.
Lịch triều hiến chương loại chí chép: “Xét từ đời Trần trở về trước, cấp bậc phong ấm không thể kê cứu, mà việc phong ấm của đời Trần chỉ thấy ở đây [1267] Còn lệ phong ấm cho các quan văn võ cũng không thể kê cứu được”.
– Năm 1277 thuộc quãng trị vì của Trần Thánh Tông nên thượng hoàng được nhắc đến là Thái Tông Trần Cảnh, Thánh Tông là con trai của Thái Tông, do đó mà công chúa Thiều Dương và công chúa Thụy Bảo là chị em gái của Trần Thánh Tông, nhưng theo như Toàn thư thì Thiều Dương và Thụy Bảo được gọi là công chúa chứ không phải là trưởng công chúa. Ngay như mục năm 1251 thì Thụy Bà là chị gái của Trần Thái Tông, tức là theo quy chế thì phải gọi là trưởng công chúa như Thiên Thành nhưng Toàn thư chỉ chép là công chúa. Có phải do sử gia Ngô Sĩ Liên chép nhầm không ? Rõ ràng là không thể nhầm rất nhiều trường hợp như vậy được. Có phải do sử gia Ngô Sĩ Liên không biết về quy chế ? Ngô sử gia khảo sách các đời không thể không biết. Như thế rõ rằng các sử quan thời Nguyễn đã không khảo cứu được quy chế tập ấm đời Trần và thậm chí ngay cả Ngô Sĩ Liên cũng không kê cứu được, tác giả của Toàn thư khi ấy chỉ thực hiện duy nhất chức năng là sao chép ? Lại thêm, giả sử Ngô Sĩ Liên biết về quy chế và khi biên soạn Toàn thư đã cố tình sử dụng thuật ngữ trưởng công chúa cho đúng với quy chế thì chúng ta có thể chắc chắn rằng Sĩ Liên biết về thân thế của Thiên Thành, thì mới dám vận tước trưởng công chúa cho Thiên Thành nhưng lạ thay, không giống với các công chúa khác, liền sau tên hiệu Thiên Thành không hề có bất ký ghi chép thêm nào của sử gia về thân thế, như trường hợp của Thụy Bà là “chị ruột của Thái Tông, cô của Quốc Tuấn, nuôi Quốc Tuấn từ nhỏ” hay của Thiều Dương là “con gái thứ của thượng hoàng tên là Thúy”. Xem ra, bản thân Ngô Sĩ Liên cũng không biết về thân thế của Thiên Thành, tước hiệu trưởng công chúa chẳng qua là do Ngô sử quan chép lại từ sử cũ mà thôi. Nhưng sử cũ, giả như được soạn vào thời Trần thì tước hiệu trưởng công chúa là như thế nào ?
Bài ký chuông thông thanh quán ở Bạch Hạc viết: “Sau đó có trưởng công chúa Thiên Thụy họ Trần, trưởng hoàng cơ của vua thứ 3 là hoàng đế Thánh Tông (…) Từ sau khi trưởng công chúa Thiên Thụy qua đời, hương dân ruộng đất ở đây đều thuộc quyền chưởng quản của trưởng công chúa Thiên Chân, trưởng hoàng cơ của vua thứ 5 là hoàng đế Anh Tông (…) Thái thượng hoàng, thái hậu ủy cho đường chủ là công chúa Bảo Vân họ Trần (…) Năm Đại Khánh thứ 8 [1321] đời vua thứ 6 triều Trần nước Hoàng Việt … Hứa Tông Đạo cẩn chí” [dẫn theo sách Chữ trên đá chữ trên đồng của tác giả Hà Văn Tấn]
– Xem bài kí thì sẽ nhận ra việc tuân thủ rất ngặt nghèo cách viết tước hiệu từ đầu tới cuối. Các trưởng công chúa Thiên Thụy và Thiên Chân đều là các con gái cả của các hoàng đế Thánh Tông và Anh Tông. Nếu phỏng theo quy chế lấy Minh Tông làm hiện tại thì Thiên Chân nhận tước hiệu trưởng công chúa là hợp lẽ nhưng còn Thiên Thụy về bề bậc Minh Tông phải gọi bằng bà nên khắc tước hiệu trưởng công chúa là không đúng. Thiên Thụy mất năm 1308, nằm trong quãng thời gian trị vì của Anh Tông nên theo đúng quy chế phải ban tước hiệu thái trưởng công chúa.
Bia tháp viên thông chùa Thanh Mai viết: “Năm ấy [1308] Sư [Pháp Loa] ở chùa Siêu Loại, phụng sắc trao cho Tuyên hoàng thái hậu, cùng với đế cơ Thiên Trinh [Chân] trưởng công chúa bồ tát giới (…) Tháng 10 năm Kỉ Mùi niên hiệu Đại Khánh thứ 6 [1319] trao cho Hoa Dương công chúa được trai giới tại gia, Hoa Dương là công chúa thứ 6 của Thái Tông, gả cho Cụ Trí vương (…) Ngày tháng 11 năm Nhâm Dần niên hiệu Đại Trị thứ 5 [1362] khắc xong niên phả” [dẫn theo sách Văn bia thời Lý Trần của nhóm tác giả Lâm Giang, Phạm Văn Thắm, Phạm Thị Thoa]
– Rõ ràng là không có bằng chứng kể cả qua sách sử và văn bia cho sự tồn tại của quy chế định rằng trưởng công chúa là tước hiệu ban cho chị em gái của hoàng đế. Nên trưởng công chúa sẽ được hiểu theo nghĩa là con gái cả của vua. Do đó, trưởng công chúa Thuận Thiên là con gái cả của hoàng đế Trần Thái Tông và là em họ của Hưng Đại vương Trần Quốc Tuấn. Cũng có nghĩa là mới tạm xác định được các con của Thái Tổ Trần Thừa gồm: Phụng Càn vương Trần Liễu, Thái Tông Trần Cảnh, Hoài Đức vương Trần Bà Liệt, Khâm Thiên đại vương Trần Nhật Hiệu và Thụy Bà công chúa.
– Nhưng rồi, mẹ của trưởng công chúa Thiên Thành là ai ? Theo Toàn thư thì vào năm 1237, trong khi vợ của Hoài vương Liễn là Thuận Thiên công chúa đang mang bầu Trần Quốc Khang được 3 tháng thì Thái Tông Trần Thừa cướp về. Năm 1240, hoàng đích trưởng tử là Hoảng được sinh. Năm 1241, hoàng tử thứ 3 Quang Khải được sinh. Theo An Nam chí lược thì “Cảnh lấy người em vợ, sinh được 3 người con trai”. Như thế, cả Toàn thư và An Nam chí lược đều chép rằng Thuận Thiên có với Thái Tông 3 người con trai và không thấy chép đến người con là trưởng công chúa Thái Đường. Theo Toàn thư thì năm 1248 hoàng hậu Thuận Thiên băng. Nếu giả sử Thiên Thành công chúa sinh sau năm 1241 thì vào năm 1251, trưởng công chúa mới có 10 tuổi, cái tuổi rất nhỏ để gả cho Trung Thành vương. Như thế Thiên Thành không thể là con của Thuận Thiên hoàng hậu.
(2) Toàn thư chép: “Giáp Thân [1224] Mùa đông tháng 10, xuống chiếu lập công chúa Chiêu Thánh làm hoàng thái tử để truyền ngôi. Vua xuất gia tại chùa Chân Giáo trong đại nội. Chiêu Thánh lên ngôi, tôn hiệu là Chiêu Hoàng. Chiêu Hoàng trước tên húy là Phật Kim, sau đổi là Thiên Hinh, con gái thứ của Huệ Tông (…) Ất Dậu [1225] Tháng 12, Chiêu Hoàng trút bỏ áo ngự, mời [chồng] Trần Cảnh lên ngôi hoàng đế. Đổi niên hiệu là Kiến Trung năm thứ 1, đại xá thiên hạ, xưng là Thiện Hoàng [hoàng đế được nhường ngôi] sau đổi là Văn Hoàng”.
– Vì Thiên Thành không phải là con gái của Thuận Thiên hoàng hậu, lại do trưởng công chúa được gả cho Trung Thành vương vào năm 1251 thì hẳn Thiên Thành cũng khoảng 15 tuổi nên tôi đặt giả thuyết: trưởng công chúa là con gái của Chiêu Thánh. Bằng chứng khác là cả trưởng công chúa và Chiêu Thánh đều có tên hiệu bắt đầu bằng chữ Thiên [Thiên Thành và Thiên Hinh] Nàng Chiêu Hoàng có lẽ là người phụ nữ bất hạnh nhất Việt Nam chăng ? Nàng lên làm vua với vai trò là một diễn viên trong vở kịch do người đã giết cha nàng đạo diễn, nàng bị hẩy ra để cho chị gái của nàng thế chỗ trong những toan tính của chính mẹ đẻ nàng và cuối cùng nàng là phần thưởng mà người chồng trước của nàng ban cho người chồng sau. Nhưng rồi chúng ta có thể hiểu vì sao, những nỗi bất hạnh lại vận vào vị nữ hoàng duy nhất của Việt Nam hay không ? Câu trả lời cũng tương tự như trường hợp của chính cha nàng là Lý Huệ Tông chằng ? Mẹ của Lý Huệ Tông đã sát hại 3 người con trai của chồng nên chính con đẻ của bà lại bị sát hại và mẹ của Lý Phật Kim đã toan tính để lấy ngôi vua cho họ Trần nên người con gái của bà phải trả món nợ vay mượn. Cả 2 trường hợp này đều vận vào câu “Phúc đức tại mẫu”.
Việt sử lược chép: “Ất Dậu [1225] Mùa đông tháng chạp, Thượng vương thấy nữ vương còn bé mà lo, với Phùng Tá Chu đến bàn rằng: “Cứ như ta thấy, không gì bằng bắt chước Đường Nghiêu ngày xưa, noi theo Nhân Tổ mới rồi, chọn người hiền mà trao ngôi. Nay ta thấy con trái thứ thái úy là mỗ, tuổi tuy còn bé, nhưng tướng mạo phi thường, tất có thể cứu đời, yên dân nên ta muốn lấy làm con, để làm chủ xã tắc, mà lấy Chiêu vương gả cho”.
Toàn thư chép: “Giáp Ngọ [1234] Mùa xuân tháng giêng ngày 18, thượng hoàng băng ở cung Phụ Thiên, thọ 51 tuổi. Mùa thu tháng 8 ngày 28, táng ở Thọ Lăng phủ Long Hưng, miếu hiệu là Huy Tông (…) Mậu Thân [1248] Mùa xuân tháng giêng, đổi miếu hiệu của Huy Tông gọi là Thái Tổ, Thọ Lăng gọi là Huy Lăng”.
– Thực của việc Huệ Tông nhường ngôi cho Chiêu Thành rồi Chiêu Hoàng nhường ngôi cho Trần Cảnh đều là vở diễn do Trần Thừa đạo diễn. Vào thời điểm diễn ra sự chuyển giao quyền lực từ họ Lý sang họ Trần, các thế lực khắp nơi nổi lên, phía bắc có Nguyễn Nộn phía đông có họ Đoàn, rồi thêm các man. Thành ra để hạn chế sự chống đối của người dân trong cả nước thì vở diễn của Trần Thừa cũng phải rất hay mới có thể đạt được mục đích. Trần Cảnh không chỉ nhận thiền vị của Chiêu Hoàng với tư cách là chồng mà còn là anh, bởi vì Trần Cảnh được Huệ Tông nhận làm con và việc nhường ngôi mang phảng phất của Lý Nhân Tông chọn Lý Thần Tông làm người kế vị. Rồi khi lên ngôi, Trần Cảnh xưng là Thiện Hoàng với nghĩa là vua được nhường ngôi, rõ là rất khiêm tốn và mang dáng dấp của Đường Nghiêu xưa kia. Rõ là Trần Thừa đã toan tính rất khéo! Về danh chính thì không thể chê được. Thú vị hơn, khi Trần Thừa chết vào năm 1234 thì miếu hiếu chỉ là Huy Tông chứ chưa phải là Thái Tổ và đó như là lời tuyên cáo của họ Trần với thiên hạ rằng: họ chỉ là người kéo dài triều Lý chứ không phải đã kiến tạo 1 triều đại khác. Cho đến năm 1248, khi chính thức đổi miếu hiệu của Trần Thừa từ Huy Tông thành Thái Tổ, họ Trần mới chính thức tuyên cáo với thiên hạ về 1 triều đại độc lập, riêng biệt và khác với triều Lý. Triều đại mới này là của họ Trần chứ không còn là của họ Lý và người sáng lập triều đại ấy là vị Thái Tổ.
Khớp nối 1
nha tran 1.jpg
Khi Thuận Trinh hoàng hậu bị giáng thì vì sao lại được ban tên hiệu là Thiên Cực ?
Khớp nối 2
nha tran 2.jpg
Lý Thái Tông có người chị em gái tên hiệu là An Quốc công chúa, như thế An Quốc công chúa là cô của Phụng Càn vương Lý Nhật Trung. Còn Trần Thái Tổ có người em họ là An Quốc đại vương, như thế An Quốc đại vương là chú họ của Phụng Càn vương Trần Liễu
Khớp nối 3
nha tran 3
– Trong bài Bàn về cái chết của Tô Trung Từ, tôi có dẫn ra những ghi chép sử liệu cho thấy về lễ nghi họ Trần giữ nguyên như thời nhà Lý và bên cạnh đó họ Trần cũng có những hành động như đắp tượng phật ở các đình trạm cũng như việc thiết yến và ban lụa cho các bô lão để cho giống với Thái Tổ nhà Lý xưa kia. Họ Trần cố gắng tạo ra không khí quen thuộc đối với người dân, để họ khỏi bỡ ngỡ, xa lạ và vẫn đang nghĩ rằng mình được cai trị bởi triều Lý. Bằng chứng rõ nhất cho việc họ Trần sợ dân chúng thức tỉnh và suy tư [xin lỗi bạn đọc vì không biết phải dùng từ nào cho vị trí từ suy tư nên mới buộc phải dùng từ khá hiện đại này, bạn đầu tính dùng từ nhận biết, nhưng người dân thì luôn biết vị vua đang cai trị là họ Trần nên từ nhận biết chỉ thể hiện được 1 lớp, ở đây tác giả muốn dùng từ mà ở đó sau khi người dân nhận biết về vị vua cai trị không phải người họ Lý thì người dân tiếp tục truy vấn về việc vị vua ấy người họ Trần đang cai trị có hợp lý không, chính sự truy vấn này mới kích động sự phản kháng rất mạnh, cũng giống như ngày nay khi nghe tới rút ruột công trình thì ai cũng thấy quen thuộc, thấy rất đỗi bình thường, nhưng nếu nghĩ về nó, rằng chúng ta làm khổ cực, vui vẻ đóng thuế nhưng số tiền thuế đó bị chúng chia nhau bỏ vào túi riêng và lừa chúng ta bằng 1 công trình chất lượng kém, chính sự suy nghĩ đó mới thổi bùng sự tức giận và thôi thúc sự phản kháng, nên suy tư hiểu theo nghĩa là biết về nó và suy nghĩ về nó] về người đang cai trị không phải là người họ Lý qua đoạn chép trong Toàn thư tại mục năm 1226: “Thượng hoàng nhà Lý có lần ra chơi chợ Đông, dân chúng tranh nhau chạy đến xem [sự biết] có người thương khóc [suy tư] Thủ Độ sợ lòng người nhớ vua cũ, sinh biến loạn, cho dời đến ở chùa Chân Giáo, bên ngoài giả vờ là để phụng sự, nhưng bên trong thực ra là để dễ bề giữ chặt”.
Toàn thư chép: “Nhâm Thìn [1232] Mùa hạ tháng 6, ban bố các chữ quốc húy và miếu húy. Vì Nguyên Tổ tên húy là Lý, mới đổi triều Lý làm triều Nguyễn, vả lại cũng để dứt bỏ lòng mong nhớ của dân chúng đối với nhà Lý”.
–  Nếu như buổi đầu nhận thiền vị của họ Lý mà họ Trần chưa dám xưng là Trần triều mà vẫn phải xưng là Lý triều thì không thể nào có chuyện “đổi triều Lý làm triều Nguyễn” được. Trước hết, Toàn thư không cho biết những chữ quốc húy và miếu húy là chữ nào, sau cùng là đoạn chép về việc đổi triều Lý làm triều Nguyễn rất có thể cũng giống như trường hợp của Thuận Thiên công chúa.
Toàn thư chép: “Mậu Thân [1248] Tháng 6, hoàng hậu Thuận Thiên băng, truy tôn là Hiển Tử Thuận Thiên hoàng thái hậu”.
Cương mục chép: “Lời bàn của Nguyễn Nghiễm: Hoàng hậu Lý thị nguyên là vợ của An Sinh vương Liễu, Thái Tông nhân Lý thị đã có thai, cướp lấy làm vợ mình, như thế đã thương luân bội lý lắm rồi, lúc mất lại tôn làm Thái hậu, thì còn có nghĩa lý gì ? Có lẽ sau này Thái Tông lên nối ngôi vua, mới truy tôn Lý thị là mẹ đẻ của mình, mà nhà chép sử đem chép lầm ở đây, cũng chưa biết chừng ? Nếu không thế thì cướp chị dâu làm vợ, tôn vợ lên như mẹ, lại còn có nhân đạo gì nữ dư”.
– Như thế có ý kiến cho rằng, do nhân cái chết của Thuận Thiên hoàng hậu mà nhà làm sử đã đem sự kiện xảy ra sau này, chính là việc truy tôn của đời sau mà chép vào, chứ thực ra tại thời điểm năm 1248 Thuận Thiên mới chỉ dừng lại ở tước hiệu hoàng hậu chứ chưa phải là hoàng thái hậu. Việc tương tự trong Toàn thư xảy ra nhiều. Nhưng rồi việc đổi triều Lý làm triều Nguyễn có giống như trường hợp của Thuận Thiên được truy tôn làm hoàng thái hậu hay không ? Xem Toàn thư thấy rằng sử chỉ chép rằng ban bố các chữ quốc húy và miếu húy nhưng lại không hề liệt kê cụ thể như những trường hợp sau này [Năm 1294 gồm 10 chữ: Thuyên, Khâm, Hoảng, Cảnh, Thừa, Lý và Phong, Diệu, Oanh, Hâm. Năm 1298 gồm 2 chữ: Ngụy và Châu. Năm 1299 gồm 10 chữ: Liễu, Nguyệt, Ngụy, Thấp, Nam, Càn, Tô, Tuấn, Anh, Tảng. Năm 1314 gồm 3 chữ của 3 vị: Ninh Hoàng, Tuyên Từ, Bảo Từ] Tác giả Ngô Đức Thọ viết “năm 1232 Toàn thư không ghi rõ chữ húy, nhưng lệnh cấm năm 1294 sẽ nhắc lại, so sánh có thể xác định năm này lệnh nêu 3 chữ húy: Lý, Thừa, Cảnh” [Bước đầu nghiên cứu chữ húy đời Trần] Nếu xem Toàn thư sẽ nhận ra hầu hết những năm ban chữ húy, gần như không có sự lặp lại chữ húy của lần ban trước, trừ chữ húy Ngụy. Tuy nhiên chữ húy Ngụy của lệnh ban năm 1299 là chỉ phải viết bớt nét nên rất có thể trong lệnh ban năm 1298 là kiêng không được viết, sau do đổi lại cách kiêng nên mới có mặt trong lệnh ban năm 1299. Nên rất khó để biết chính xác các chữ húy của lệnh ban năm 1232 là gì ? Nhưng Thừa và Cảnh thì hẳn là có rồi, cũng có thể năm 1232 không hề tồn tại lệnh ban chữ húy như Toàn thư chép. Dù thế nào thì chúng ta có thể chắc chắn rằng: tác giả của Toàn thư đã không biết các chữ húy của lệnh ban năm 1232 nên mới không chép rõ như các năm khác và vì không biết rõ các chữ húy của lệnh ban năm 1232 nên hoặc là tác giả của Toàn thư chỉ thực hiện công việc sao chép từ tài liệu cũ hoặc đã tự ý chép bổ sung thông tin “đổi họ Lý làm họ Nguyễn” vào mục năm 1232. Rất khó để xác định chính xác lệnh “đổi họ Lý làm họ Nguyễn” diễn ra khi nào, xin phép sẽ trở lại vấn đề này trong bài khác.