1.
Đại Việt sử ký toàn thư chép: “Thiệu Bảo năm thứ 4 [năm 1482] mùa thu tháng 8
(…) có cá sấu đến sông Lô. Vua sai Hình bộ thượng thư Nguyễn Thuyên làm bài văn
ném xuống sông, cá sấu bỏ đi. Vua cho việc này giống việc của Hàn Dũ, bèn ban gọi
là Hàn Thuyên. Thuyên lại giỏi làm thơ phú quốc ngữ. Thơ phú nước ta dùng nhiều
quốc ngữ, thực bắt đầu từ đây”.
Trong
bài Thể thơ thất ngôn xen lục ngôn: Sự sáng tạo thể loại đầu tiên trong lịch sử
văn học Việt Nam của tác giả Nguyễn Phạm Hùng viết: “những bài thơ tứ tuyệt hay
bát cú theo kiểu Đường luật nhưng có những câu sáu chữ và những câu bảy chữ xen
nhau, làm thay đổi hẳn tính quy phạm của thi luật thơ Đường mà ngày nay ta gọi
là thể thất ngôn xen lục ngôn. Lối thơ này (…) phát triển rất mạnh và trở
thành thể thơ tiếng Việt chủ chốt (…) được đánh dấu bởi (…) những nhà thơ (…)
như Nguyễn Trãi (1380 - 1442) với Quốc âm thi tập (186/254 bài); Lê
Thánh Tông (1442 - 1497) (…) với Hồng Đức quốc âm thi tập (135/328
bài); Nguyễn Bỉnh Khiêm (1491 - 1585) với Bạch Vân quốc ngữ thi tập (97/161
bài) (…) Rõ ràng, sự xuất hiện của thể thơ thất ngôn xen lục ngôn là một sự kiện
quan trọng trong đời sống văn học của nước Việt Nam cổ xưa (….) Có ba quan điểm
về nguồn gốc của thể thơ thất ngôn xen lục ngôn: Quan điểm thứ nhất cho rằng
thể thất ngôn xen lục ngôn là sự tổ hợp giữa câu thơ 6 chữ của thơ cổ
phong với câu thơ 7 chữ của thơ Đường luật có sẵn của Trung Quốc. Tiêu biểu cho
quan điểm này là nhà nghiên cứu Bùi Văn Nguyên (...) Quan điểm thứ hai cho
rằng thể thất ngôn xen lục ngôn là sự kết hợp giữa câu thơ 7 chữ thất ngôn
luật của Trung Quốc với câu thơ 6 chữ trong thơ ca dân gian của Việt Nam [tiêu
biểu cho quan điểm này là nhà nghiên cứu Phan Ngọc] (…) Quan điểm thứ ba cho
rằng thể thất ngôn xen lục ngôn được tạo ra trên chính kết cấu và hình thức
của bài thơ luật Đường của Trung Quốc. Các nhà thơ cổ của Việt Nam đã tạo
ra câu thơ lục ngôn bằng cách cắt giảm một chữ của câu thơ thất ngôn luật, rồi
phối hợp các câu thơ lục ngôn với các câu thơ thất ngôn để tạo nên thể thơ này
(…) và quan trọng hơn (…) nó là giả thiết duy nhất có thể chứng minh được”.
Trong
bài Giải mã những câu thơ sáu chữ trong quốc âm thi tập từ ngả đường ngữ âm học
lịch sử của tác giả Trần Trọng Dương viết: “Nôm cổ ở đây trỏ chữ Nôm dùng hai
chữ Hán nén trong một khối vuông để ghi ngữ âm tiếng Việt cổ (…) tổ hợp phụ âm
đầu là hiện tượng phổ biến của tiếng Việt từ thế kỷ XVII trở về trước (…) những
từ có tổ hợp phụ âm đầu sẽ có cấu trúc ngữ âm là CCVC (…) trong số 29 ngữ tố xuất
hiện với tần số 101 lần trong văn bản Quốc âm thi tập, có 89 vị
trí xuất hiện trong câu thơ sáu chữ, chỉ có 14 vị trí đồng thời xuất hiện
trong câu thơ bảy chữ, không có vị trí nào chỉ xuất hiện trong câu
thơ bảy chữ (...) Nguyễn Trãi đã tiến hành điều phối âm thanh (…) bằng cách âm
tiết hóa yếu tố đằng trước của tổ hợp phụ âm đầu CC- [theo cách gọi của H.
Maspéro] để các từ có cấu trúc CCVC trở thành cấu trúc CV-CVC (…) trên quan điểm
của tâm lý học ngôn ngữ, được gọi là các đại lượng âm tiết cảm thức(intuitive).
Theo sự giới thiệu của GS. Nguyễn Quang Hồng, các âm tiết cảm thức có
thể được phân xuất ra ngay cả trong những trường hợp đặc biệt của ngôn từ
thi ca, có những từ được các nhà thơ sử dụng vừa như là từ đơn âm tiết lại
vừa như là từ song âm tiết, lại có những từ khác được sử dụng khi thì như từ
song tiết khi thì như là ba âm tiết (...) tiếng Việt cổ thế kỷ XV là một
thứ ngôn ngữ đang trong quá trình đơn tiết hóa, cho nên các biến thể ngữ âm (dạng
cận song tiết CvCVC, dạng đơn tiết CCVC, dạng đơn tiết CVC và dạng Cv -
CVC) của một ngữ tố cùng một lúc tồn tại trong quá trình hành ngôn sống động
(…) bởi chưa phát hiện ra đặc điểm này, nhiều nhà nghiên cứu trước đây đều băn
khoăn rằng: nếu đã tái lập ở trường hợp này thì đủ bảy âm tiết nhưng ở chỗ khác
lại thừa thành tám chín âm tiết. Tức là cách tiếp cận và tái lập ấy tưởng là có
tính hệ thống và tính nhất quán nhưng lại quên đi tính sống động của ngôn ngữ.
Tuy nhiên, hầu hết vẫn không mấy khi nghi ngờ về những cặp song tiết - đơn tiết
như đá - la đá; ngựa - bà ngựa; ngàn - la ngàn vốn đã có sẵn trong
văn bản rồi”.
Trong
bài Vài nét xung quanh hiện tượng ghi âm bằng hai mã chữ trong bản giải âm phật
thuyết đại báo phụ mẫu ân trọng kinh của tác giả Hoàng Thị Ngọ viết: “Qua việc khảo sát sơ bộ chữ Nôm trong văn bản giải âm Phật thuyết
có thể thấy rằng trong lịch sử phát triển chữ Nôm, có hiện tượng dùng 2 mã chữ tách rời để ghi một từ Việt, nhất là trong chữ Nôm ở thời kỳ
đâu. Đây là những lưu
tích về ngôn ngữ của một giai đoạn lịch sử được phản ánh trong hệ thống văn tự
tương ứng”.
“Cầm khua hết ngựa,
cờ khua tượng
Chim bắt trong rừng,
cá bắt ao” [Tự thán 19]
“Con đòi trốn, dễ
ai quyến
Bà ngựa già, thiếu kẻ chăn” [Thủ vĩ
ngâm]
*
Nhận xét
Câu hỏi thứ nhất:
Các biến thể ngữ âm dạng đơn tiết và song tiết cùng tồn tại vậy thì tại sao những
thể hiện của nó dưới dạng chữ viết lại khác nhau ? Cùng 1 ký hiệu ở câu 6 chữ
thì đọc song tiết còn ở câu 7 chữ thì đọc đơn tiết vậy vì sao trong những câu 6
chữ lại không dùng 2 ký tự tách biệt để ghi âm đọc song tiết như trường hợp của
câu thơ “Bà ngựa già, thiếu kẻ chăn” ? Trường hợp câu lục có 2 vị trí có thể tái
lập thành song tiết như ví dụ “Sang cùng khó bởi chưng lời” thành “Cơ - sang cùng
khó bởi chưng lời” hoặc “Sang cùng khó bởi chưng bờ - lời” vậy đâu là cách mà
Nguyễn Trãi đã dùng ? Có khi nào thơ ca là cuộc chơi của riêng tác giả mà những
người khác không thể tham gia vào cùng ? Hay khi thu thập, sao chép đã có sai sót
?
Câu hỏi thứ hai:
Có phải hiện tượng xuất hiện các câu thơ lục chỉ diễn ra trong thơ Nôm hay không
?
Nhà
thơ đời Trần Nguyễn Trung Ngạn có 2 bài thơ chữ Hán như sau:
“Nghệ An dĩ bắc
tam thiên lý
Đồn trấn nhi kim
nhất bách niên
Vãng sự dĩ tuỳ lưu
thuỷ khứ
Tích nhân thặng
giả bi truyền” [Cầu dinh hoài cổ]
“Quyết
sơn nguyệt thượng phóng chu hành
Vạn khoảnh thương mang nhất vọng bình
Thương xuy cao phàm thượng hạ
Lạo sơ lạc thuỷ tung hoành
Ba quang sơn sắc miêu vô tận
Khách tứ hương tâm mộng bất thành
Vụ tán giang không thiên hướng thự
Cúc tôn chước bãi mính xanh phanh” [Vĩnh
Giang nguyệt phiếm]
Nhà thơ đời Trần
Phạm Tông Mại có bài thơ chữ Hán như sau:
“Hồng thụ nhất khê lưu thuỷ
Thanh sơn thiên lý tà dương
Dục hoán biển chu quy khứ
Thử sinh vị bốc hành tàng” [Nhàn cư đề
thuỷ mặc trướng tử tiêu cảnh]
Nhà thơ đời Trần
Mạc Ký có bài thơ chữ Hán như sau:
“Giang ngạn mai hoa chính bạch
Thuyền đầu tế vũ tà phi
Hành khách tam danh bắc khứ
Tướng quân nhất trạo nam quy” [Tống sứ
ngâm]
Nhà thơ đời Lý
Trí Bảo thiền sư có bài thơ chữ Hán như sau:
“Bất nhân phong quyển phù vân tận
Tranh kiến thanh thiên vạn lý thu
?
Tương thức mãn thiên hạ
Tri âm năng kỷ nhân” [Tạ Đạo Huệ thiền
sư]
Rõ
ràng những bài thơ Nôm của Nguyễn Trãi trong Quốc Âm thi tập không phải là những
bài thơ đầu tiên xuất hiện những câu lục, Vĩnh Giang nguyệt phiếm và Cầu dinh
hoài cổ của Nguyễn Trung Ngạn cho chúng ta bằng chứng thuyết phục. Những bài thơ
kiểu này được chúng ta gọi là thể Cổ Phong [thể thơ không có luật] Việt Nam thời
Lý Trần có thể tìm thấy nhiều bài thơ thuộc thể Cổ Phong viết bằng chữ Hán và
chữ Nôm. Thời nhà Đường xuất hiện thể thơ có niên luật rất chặt chẽ gọi là thơ
Đường Luật, người Việt cũng sáng tác thơ theo thể này. Tuy nhiên có 2 lưu ý sau
đây:
Sách Về thi pháp
thơ Đường của tác giả Nguyễn Khắc Phi và Trần Đình Sử viết: “Ít nhất cho đến
ranh giới Minh - Thanh, quan niệm về sự xắp xếp ý tứ trong một bài luật thi vẫn
còn khá uyển chuyển; mặc dù đã xuất hiện các khái niệm khởi, thừa, chuyển, hợp, nhưng họ
không hề gắn một cách cứng nhắc các phần cần có ấy của một bài luật thi với những
câu cụ thể”.
Đại Việt sử ký
toàn thư chép: “Quang Thuận năm thứ 4 [1463] Tháng 3 ngày mồng 3 Hoàng Thanh chết
thọ 53 tuổi. Bấy giờ Lương Như Hộc người Hồng Châu có bài tán đề vào bức chân
dung của Thanh rằng:
“Thiếu
kết tri ư Thái Tổ
Trưởng tín nhiệm ư Thánh Tông
Thể cụ nhi dụng chu
Tử hiếu nhi trần trung
Tứ triều lịch sự
Nhất tiết thuỷ chung”
Tháng
12 sắc dụ Lễ bộ tả thị lang Lương Như Hộc rằng: Mới rồi, Nguyễn Vĩnh Trinh không
học thể thơ quốc ngữ, làm thơ không đúng phép. Ta tưởng là người biết, nên mới
hỏi thử ngươi, nhưng ngươi cũng không biết nốt. Vả ta xem Hồng Châu quốc ngữ
thi tập của ngươi còn nhiều chỗ thất luật, ta chắc là ngươi chưa biết nên mới nói
ra. Vũ Lãm thường không muốn ta nói cho người biết đâu”.
Thật đáng tiếc là
Hồng Châu quốc ngữ thi tập không còn để chúng ta biết “chỗ thất luật” mà nhà
vua nói đến là thất luật như thế nào ? Và quan trọng hơn là để so sánh với Quốc
Âm thi tập của Nguyễn Trãi. Nhưng rõ ràng là làm thơ thể Đường luật là rất khó,
không phải ai cũng làm được và cũng không phải ai cũng làm đúng. Thể Đường luật
khó vậy không lẽ các thi sĩ thời Lê Nguyễn không làm nữa sao ? Không phải, họ vẫn
tiếp tục làm thơ nhưng không phải hoàn toàn theo thể Đường luật, mà ngoài Đường
luật ra họ còn làm theo thể Cổ Phong [đúng hơn là thể tự do, thể thơ không có
niên luật chặt chẽ] Không loại trừ Nguyễn Trãi cũng nằm trong trường hợp này.
Nghĩa là câu lục trong Quốc Âm thi tập thực sự đúng là câu lục, là 6 chữ viết cũng
là 6 tiếng đọc. Có 2 kịch bản diễn ra như sau: Kịch bản thứ nhất là các nhà thơ thời Lý Trần đang làm thơ thể Cổ
Phong, đột ngột thể Đường luật xuất hiện và từ thời Lê tất cả các nhà thơ đều
phải làm theo thể Đường luật, mọi bài thơ đều thuộc thể Đường luật cả, khi đó
chúng ta lúng túng trong việc giải thích những bài thơ Thất ngôn xen lục ngôn của
Nguyễn Trãi trong Quốc Âm thi tập mà 2 cách như đã trình bày trong đầu bài viết:
một là chấp nhận đó như là 1 sáng tạo của Nguyễn Trãi từ thể thơ Đường luật và
hai là sử dụng phương pháp ngữ âm để buộc những bài thơ Thất ngôn xen lục ngôn đảm
bảo tuân theo thể Đường luật. Kịch bản thứ
hai là các nhà thơ thờ Lý Trần làm thơ theo thể Cổ Phong [thể tự do] sau đó
các nhà thơ tiếp nhận từ từ thể Đường luật, cho đến thời Lê tồn tại 2 thể thơ là
Cổ Phong và Đường luật. Điểm thú vị nhất trong giai đoạn tiếp xúc này là hình
thành sự pha trộn giữa 2 thể thơ kết quả là thể thất ngôn xen lục ngôn ra đời.
Nguyễn Trãi vừa làm thơ chữ Hán lại vừa làm thơ chữ Nôm, vừa làm thơ theo thể
Đường luật nhưng cũng làm theo thể Cổ Phong và tất nhiên là cả thể thất ngôn
xen lục ngôn. Trong sự tiếp biến về thơ của việc tiếp xúc giữa thể Cổ Phong và
Đường luật thể thất ngôn xen lục ngôn xuất hiện, được xem như là di biệt của thể
Đường luật và là thể kéo dài của Cổ Phong [Cổ Phong chưa chết khi Đường luật xuất
hiện]
Câu
hỏi thứ ba: Điều gì đã làm xuất hiện thất ngôn xen
lục ngôn ? Có lẽ đây là 1 giả tưởng hơn là 1 giả thuyết.
Đại Việt sử ký
toàn thư chép: Thiệu Bình năm thứ 4 [năm 1437] mùa xuân tháng giêng sai Hành
khiển Nguyễn Trãi và Lỗ bộ ty giám Lương Đăng đốc suất làm loan giá, nhạc khí,
dạy tập nhạc múa (…) Hành kiển Nguyễn Trãi dâng bản vẽ khánh đá và tâu rằng: Kể
ra đời loạn dùng võ, thời bình chuộng văn. Nay đúng là lúc nên làm lễ nhạc. Song
không có gốc thì không thể đứng vững, không có văn thì không thể lưu hành. Hoà
bình là gốc của nhạc, thanh âm là văn của nhạc (…) tháng 5 Hành khiển Nguyễn Trãi
tâu rằng: Mới rồi bọn thần cùng với Lương Đăng hiệu định nhã nhạc, nhưng kiến
giải của thần không giống với Lương Đăng, thần xin trả lại công việc được sai
(…) tháng 11 ban bố các nghi thức mới định lại” [theo Viện sử học sau khi âm nhạc
cung đình của Lương Đăng chính thức được áp dụng thì vua Lê Thái Tông ra lệnh bãi
bỏ trò hát chèo và thôi không tấu các loại nhạc thông tục dân gian]
Trong bài Tư duy
chèo của tác giả Trần Bảng viết: “Người ta thấy ở chèo hầu như tất cả các thể
loại thơ phú Việt Nam. Dùng phổ biến là thể ngũ ngôn, thất ngôn, thể lục bát, các
thể biến của nó và thơ văn biền ngẫu”.
[Biền ngẫu là hình
thức cấu trúc của một loại văn chương cổ xưa có cội nguồn từ Trung Quốc, trong đó
lấy đối làm nguyên tắc cơ bản, tạo cho lời văn sự nhịp nhàng cân đối. Kiểu câu
chỉnh tề, câu 4 chữ đối với câu 4 chữ, câu 6 chữ đối với câu 6 chữ hoặc câu 4/4
và câu 6/6 đối nhau]
“Duy
ngã Đại Việt chi quốc
Thực vi văn hiến chi bang”
“Hân thương sinh ư ngược diệm
Hãm xích tử ư hoạ khanh”
“Phẫn hung đồ chi vị diệt
Niệm quốc bộ chi tao truân” [Cáo Bình Ngô]
Giả tưởng: Rất có
thể sự xuất hiện của thể thất ngôn xen lục ngôn trong Quốc Âm thi tập là kết quả
của sự tác động mạnh mẽ của âm nhạc dân gian [chèo] đối với thể Đường luật
trong không khí thơ ca thể Cổ Phong vẫn còn tồn tại.
Trong bài Xác định
một số bài thơ của Nguyễn Trãi hay của Nguyễn Bỉnh Khiêm của tác giả Lã Nhâm Thìn
viết: “Nguyễn Trãi sử dụng hầu hết cách ngắt nhịp có thể có đối với câu thơ 6
chữ. Đó là những cách ngắt nhịp 2/2/2; 1/5; 2/4; 3/3; 4/2; 5/3; 6/0”.
Rõ ràng là trong
thơ ca của Nguyễn Trãi nhịp điệu có vai
trò rất quan trọng.
2.
Sách Lục
bát và song thất lục bát của tác giả Phan Diễm Phương viết: “Sự kết hợp kỳ diệu
giữa thất ngôn và lục bát để tạo thành thể song thất lục bát thì phải chăng đã
có thể có nhiều phần chắc, rằng đó là sáng tạo của riêng người Việt, bởi vì cho
đến nay, chưa tìm thấy ở đâu một sự kết hợp như vậy, ngoại trừ trong thơ ca người
Việt”. Cũng theo tác giả Phan Diễm Phương và Ngô Văn Đức thì bài thơ theo thể
Song thất lục bát đầu tiên là tác phẩm Đại nghĩ bát giáp thưởng đào giải văn của
Lê Đức Mao.
“Xuân nhật tảo, khai gia cát hội
Hạ đình thông xướng thái bình âm
Tàng câu mở tiệc năm năm
Miếu Chu đối việc chăm chăm tấc thành”
“Tiệc mở hát thờ thần kỳ phúc
Vạn vạn niên tề chúc thánh cung
Hoan thanh ba tiếng hô Tung
Hương nghi ngút khói, rượu nồng nã hoa
Đình tấu nhạc, miếu dâng ca
Vẻ thanh múa phượng, khúc hoà bay loan” [Đại
nghĩ bát giáp thưởng đào giải văn]
Trong bài Những
phát hiện mới về Lê Đức Mao và bài Đại nghĩ bát giáp thưởng đào giải văn của tác
giả Nguyễn Xuân Diện viết: “Trên tạp chí Văn học, GS. Phan Ngọc cho biết: “Bài
thơ song thất lục bát đầu tiên mà tôi biết được là bài Bồ Đề thắng cảnh thi
trong tập Lê triều ngự chế quốc âm thi tập có thể làm vào khoảng thế kỷ XV”. Lê
triều ngự chế quốc âm thi hiện có một bản mang ký hiệu AB.8, thư viện Hán Nôm,
nhưng hiện các nhà nghiên cứu Ngữ văn học Hán Nôm vẫn chưa minh chứng văn bản tập
sách này (…) Lê Đức Mao tức Lê Tín (1462 – 1529) đậu tiến sĩ khoa Ất Sửu (1505)
Đoan Khánh 1, đời Lê (…) Bài Đại nghĩ bát giáp thưởng đào giải văn là một bài
thơ Nôm mang nhiều giá trị thông tin về nhiều khía cạnh giúp cho việc nghiên cứu
về Ca trù, Hát cửa đình”.
Trong bài Nguyễn
Trãi sự hội tụ những tinh hoa của văn hoá Thăng Long thời Lý Trần của tác giả
Nguyễn Công Lý viết: “Theo thống kê của Nguyễn Huệ Chi và Hoàng Trung Thông thì
ở Quốc âm thi tập trong 159 bài bát cú có 391 câu thơ 6 tiếng (dòng 1 có 50
câu; dòng 2 có 43 câu; dòng 3 có 56 câu; dòng 4 có 56 câu; dòng 5 có 54 câu;
dòng 6 có 54 câu; dòng 7 có 37 câu; dòng 8 có 41 câu) và trong 25 bài tứ tuyệt
có 35 câu 6 tiếng (dòng 1 có 08 câu; dòng 2 có 09 câu; dòng 3 có 08 câu; dòng 4
có 10 câu). Tổng cộng có 184 bài thơ thất ngôn xen lục ngôn với 426 câu lục
ngôn. Trong khi đó theo Phạm Thị Phương Thái trong luận án Tiến sĩ Ngôn ngữ và
thể thơ trong Quốc âm thi tập của Nguyễn Trãi, thì có 186 bài thơ thất ngôn xen
lục ngôn, trong đó có 437 câu lục ngôn ở các vị trí không cố định. Chúng tôi đã
thử kiểm tra lại và nhận thấy con số thống kê trong công trình của Phạm Thị
Phương Thái là chính xác (...) Nguyễn Trãi đã mạnh dạn đưa nhịp 3 vốn là nhịp
trong thơ song thất của ta vào thơ cách luật, mà dạng nhịp này duy nhất trước
đó Trần Thánh Tông đã có một lần thể nghiệm thành công ở bài thơ chữ Hán Hạnh
Thiên Trường hành cung mà Hồ Nguyên Trừng đã hết lời ngợi ca bài thơ này trong
Nam Ông mộng lục”
“Cảnh
thanh u vật diệc thanh u
Thập nhất tiên châu thử nhất châu
Bách bộ sinh ca, cầm bách thiệt
Thiên hàng nô bộc, quất thiên đầu
Nguyệt vô sự chiếu nhân vô sự
Thuỷ hữu thu hàm thiên hữu thu
Tứ hải dĩ thanh, trần dĩ tịnh
Kim niên du thắng tích niên du” [Hạnh
Thiên Trường hành cung]
Giả thuyết rằng:
Âm nhạc tiếp tục tác động đến các thi sĩ, đã thúc đẩy họ sáng tạo nên câu bát từ
câu thất liền sau câu lục trong thể thất ngôn xen lục ngôn, sự sáng tạo này chạy
theo tính nhịp điệu hơn là niên luật, kết quả là thể song thất lục bát ra đời.
Trong bài Về nguồn
gốc thể thơ hát nói của tác giả Phạm Ái viết: “[Theo Dương Quảng Hàm thì] Hát
nói [là một thể văn vần có tính cách văn học cao. Nhiều bài hát nói đã trở thành
bài bản của bộ môn nghệ thuật ca trù. Một bài hát nói chia làm nhiều đoạn gọi là
khổ bài, mỗi khổ có bốn câu trừ khổ cuối chỉ có ba câu. Số chữ trong câu không
nhất định thường đặt những câu 7 – 8 chữ, duy có câu cuối bao giờ cũng đặt 6 chữ]
và là biến thể của hai thể song thất và lục bát [tuy nhiên ông] không lý giải
mà chỉ đưa ra một nhận xét tiên nghiệm (…) ý kiến của ông Phạm Thế Ngũ cho rằng,
thể thơ hát nói là biến thể của lối thơ song thất lục bát và nói lối trong tuồng
cũng không không đủ sức thuyết phục (…) GS Bùi Văn Nguyên
tỏ ra nhất nguyên, nhất quán. Ông khẳng định hát nói là biến thể của lối nói sử
trong chèo, tuồng (...) theo tác giả Vi Phong thì hát nói có thể có nguồn gốc từ
thể hát giặm cửa quyền. Xét về vận luật, thì giặm vừa có vần chân vừa có vần
lưng. Mô hình vần chân của giặm cũng là vần liền, từng cặp vần cuối dòng luân
phiên bằng trắc. Tuy nhiên, âm luật của giặm và hát nói hoàn toàn khác nhau” [Theo
nghiên cứu gần đây, hát Nói có thể xuất hiện từ thời vua Lê Thánh Tôn]
“Mưỡu:
Đàn thông phách suối vang lừng,
Đàn thông phách suối vang lừng,
Cá khe lắng kệ,
chim rừng nghe Kinh.
Hát nói:
Bầu trời, cảnh bụt,
Thú Hương Sơn ao
ước bấy lâu nay.
Kìa non non, nước
nước, mây mây,
Đệ nhất động hỏi
là đây có phải?
Thỏ thẻ rừng Mai
chim cúng trái,
Lững lờ khe Yến
cá nghe kinh.
Thoảng bên tai một
tiếng chày kình,
Khách tang hải
giật mình trong giấc mộng.
Này suối Giải
Oan, này chùa Cửa Võng,
Này am Phật
Tích, này động Tuyết Quynh.
Nhác trông lên,
ai khéo vẽ hình:
Đá ngũ sắc long
lanh như gấm dệt.
Thăm thẳm một
hang lồng bóng nguyệt,
Chập chờn mấy lối
uốn thang mây.
Chừng giang sơn
còn đợi ai đây,
Hay tạo hoá khéo
ra tay sắp đặt?
Lần tràng hạt niệm
"Nam mô Phật",
Cửa từ bi công đức
biết là bao.
Càng trông,
phong cảnh càng yêu” [Phong cảnh Hương Sơn của Chu Mạnh Trinh]
Hát nói sử dụng
nhiều nhiều thể thơ khác nhau tuy nhiên câu cuối luôn là câu lục, đây liệu có
phải là dấu vết còn sót lại của thể thất ngôn xen lục ngôn không ?
Trong bài Đi tìm nguồn
gốc thể lục bát Việt Nam của tác giả Nguyễn Xuân Đức
viết: “Khi viết bài Thể lục bát từ ca dao đến Truyện Kiều, Nguyễn Văn Hoàn đã
ngầm thừa nhận rằng lục bát bắt nguồn từ ca dao. Nguyễn Xuân Kính khi dành 20
trang viết để khảo sát thể thơ này trong ca dao, dù chỉ phác thảo sơ bộ, cũng
ngầm định thể lục bát là thể thơ dân gian (…) Phan Diễm Phương đã chỉ ra, trong
thực tế mãi đến thế kỷ XVI nhiều tác phẩm văn học viết vẫn còn sử dụng thể lục
bát một cách “xô bồ, lỏng lẻo”. Dựa vào ý kiến của nhà ngôn ngữ học và dân tộc
học Pháp A.G. Haudricourt, khi nghiên cứu nguồn gốc thanh điệu tiếng Việt, Phan
Diễm Phương cho rằng một khi đến thế kỷ thứ VI tiếng Việt mới hội đủ ba thanh
(không, huyền và sắc) để có thể tạo dựng luật phối thanh cho thể lục bát, thì
thể lục bát không thể ra đời trước đó (...) Phan Diễm Phương đã rất công phu
chia sự phát triển của thể thơ lục bát làm ba giai đoạn và khảo sát thể thơ này
trong một loạt tác phẩm (…) rồi đi đến kết luận: “ở giai đoạn thứ nhất, thể
thơ còn nằm trong tình trạng khá xô bồ, lỏng lẻo, do ý thức về một khuôn mẫu
còn mờ nhạt”. Sự “xô bồ, lỏng lẻo” được Phan Diễm Phương chỉ ra cụ thể “trước hết
qua sự gieo vần”, “tiếp đến là về phối điệu”. Và giai đoạn một, theo xác định của
Phan Diễm Phương, ở vào giữa thế kỷ XVI đến thế kỷ XVII (...) đường dẫn của sự
hình thành các thể thơ dân gian, trong đó đặc biệt là thể lục bát (…) có nguồn
gốc sâu xa từ thành ngữ nhưng bắt đầu bộc lộ rõ ở tục ngữ”.
“Vô
sự là tiểu thần tiên
Gẫm xem ngoại thú lâm tuyền cực vui
Đất vua ai chẳng là tôi
Non cao hang thẳm cũng đời tôn thân
Đôi vần ác thỏ đổi lần
Muôn hoa giáp tý xoay vần bàn tay
Thú này ai là kẻ hay
Dẫu nghìn vàng đổi trao tay chẳng thà
Non cao xen lấy làm nhà
Sắt là vách cứng ngọc là bình che
Xung quanh nước chảy rò rè
Khoang rồng uốn khúc tốt ghê hữu tình
Đoá mây phù rợp tàn xanh
Rừng in nội lục chung quanh làng ghềnh
Cảnh này lo là vẽ tranh
Ngọn cây sớm sớm treo tranh mặt hồng” [Đào
nguyên hành của Phùng Khắc Khoan]
Trong bài Lục bát Chăm của
tác giả Inrasara viết: “Như đã nêu ở trên, lục bát Việt có vần trắc. Và khi bài
thơ hơn hai cặp lục bát có lối gieo cả vần bằng lẫn trắc thì chúng mang dáng dấp
của thể song thất lục bát.
“Tò vò mà nuôi
con nhện
Ngày sau nó lớn nó quến nhau đi
Tò vò ngồi khóc tỉ ti
Nhện ơi nhện hỡi mầy đi đàng nào”
Qua đối chiếu và phân
tích sơ bộ, chúng ta thấy lục bát Việt và ariya Chăm có rất nhiều điểm
giống nhau. Trong đó cái giống nhất là nhịp điệu (rhythm) của chúng. Khác nhau
chăng là do sự dị biệt ở ngôn ngữ của hai dân tộc. Chúng ta không thể khẳng định
ai có trước ai có sau”.
Giả thuyết là: Nhịp điệu luôn là mối bận tâm hàng đầu của các nhà thơ
nên họ tiếp tục lục bát hoá nốt hai câu thất trong thể song thất lục bát, để trở
thành thể thơ mới thể lục bát.
[Thời Lý Trần tồn tại
thể Cổ Phong, nhưng cũng xuất hiện thể Đường luật, thời Lê thể thất ngôn xen lục
ngôn xuất hiện, khi thể này suy tàn thì thể song thất lục bát phát triển, khi
thể song thất lục bát suy tàn thì thể lục bát phát triển]
Tiểu kết: Thời Lý Trần thơ không có luật gọi chung
là thể Cổ Phong, khi thể Đường luật xuất hiện thì đã diễn ra quá trình tiếp xúc
giữa 2 thể thơ này, khiến thể Cổ Phong bị luật hoá còn thể Đường luật thì bị tự
do hoá, kết quả hình thành nên thể thơ thất ngôn xen lục ngôn rất phổ biến vào
thời Lê. Thể thất ngôn xen lục ngôn rất đa dạng, tuy nhiên có 2 dạng chính sau
này rất phát triển đó là thể song thất lục bát và muộn hơn là thể hát nói, thể
song thất lục bát đã không dừng lại mà tiếp tục phát triển để trở thành thể lục
bát. Môi trường của lục bát sinh sống là trong ca dao, dân ca như vậy có thể thấy
quá trình phát triển của thơ ca là quá trình dân gian hoá, là quá trình đưa thơ
từ bác học đến bình dân, đưa thơ từ thiền sư tới văn sĩ và cuối cùng là tới dân
gian. Nguyên nhân căn bản của quá trình dân gian hoá thơ này là việc xuyên suốt
của các nhà thơ đã ưu tiên tính nhịp điệu của âm nhạc dân gian vào trong thơ.
Quá trình dân gian hoá thơ là 1 quá trình trong sự vận động của văn hoá nói
chung và thơ văn nói riêng, đó không phải và chưa bao giờ là quá trình duy nhất.
Sài Gòn 2017. Đông Ly